Thời gian  dần trôi, một phần ba thế kỷ đã qua, Hà Nội thay đổi từng ngày, nhưng   hình ảnh những cột khói cuồn cuộn bốc lên vào buổi chiều Thu Hà Nội và  những gương mặt rạng ngời vui tươi của những người nghệ sĩ mãi mãi không  phai mờ trong kí ức của tôi...                    
                     "Dù có  đi bốn phương trời
Lòng vẫn nhớ về Hà Nội...".
  Đó là hai câu mở đầu của một bài hát viết về Hà Nội. ...  Thực sự dù chúng ta đã ở hoặc đã qua Hà Nội, khi đi xa đều thấy lòng  mình lưu luyến, bởi Hà Nội đẹp và có nhiều thứ để ta phải nhớ: Trung tâm  thành phố có hồ Hoàn Kiếm với hàng liễu rủ, giữa hồ là một tháp rêu  phong cổ kính, có đền Ngọc Sơn tĩnh mịch, linh thiêng, nối với đất liền  là cầu Thê Húc, nghe tên đã thấy có chiều dài lịch sử… Mỗi khi Thu về  làm ta lại nhớ tới cốm làng Vòng được gói trong chiếc lá sen và buộc bởi  những sợi rơm mộc mạc nhưng rất Hà Nội. Những ngày cuối tuần, tôi lại  thấy bồi hồi về một thời thiếu nữ, sau buổi tan trường một lũ con gái  sống vô tư dạo bước đùa nghịch trên đường Cổ Ngư xưa. Nếu một đêm không  ngủ, chúng ta sẽ nghĩ đến các chị lao công và những tiếng sột soạt của  "chổi tre đêm hè quét rác", tiếng tầu điện leng keng vào buổi sáng ban  mai và những tiếng rao đêm rất đặc trưng Hà Nội: xôi đêm, phở gánh, tẩm  quất...
  
                              |          
      
  Những cái nhớ đấy là nhớ về Hà Nội của "một thời hoà  bình", còn trong bài viết hôm nay tôi muốn kể lại những kỷ niệm về Hà  Nội "một thời đạn bom". Một buổi tối cách đây vài năm, ngồi xem tivi Ba  Lan, tôi đã thấy chị Jane Fonda, diễn viên điện ảnh Mỹ, thay mặt ban tổ  chức trao giải Oscar cho nhà đạo diễn điện ảnh nổi tiếng của Ba Lan  Andrzej Wajda. Tôi rất yêu quý chị, đó là một người phụ nữ tuyệt vời.  Trong những ngày chiến tranh ác liệt, chị đã đến Việt Nam quê hương tôi  để thể hiện ước nguyện Việt Nam được hoà bình. Hôm nay chị lại trao giải  Oscar, đỉnh cao của nghệ thuật điện ảnh cho một người Ba Lan, đất nước  mà tôi đã gắn bó hơn hai mươi năm.
 Sau mấy năm đàm phán tại hội nghị Paris, tháng 4 năm  1972 Mỹ trở lại ném bom miền Bắc ác liệt hơn, với những máy bay hiện đại  hơn (F111 và pháo đài bay B52) và tập trung chủ yếu vào các thành phố  lớn. Chúng doạ đưa Hà Nội của chúng ta về thời đồ đá.  Lúc này trong  lòng nước Mỹ cũng có rất nhiều người dân yêu hoà bình, phản đối chiến  tranh ở Việt Nam, trong đó có nữ nghệ sĩ điện ảnh nổi tiếng Jane Fonda.  Để thể hiện quyết tâm của mình, chị đã đến Việt Nam. Một buổi sáng mùa  hè năm ấy, trong vườn hoa Giám, một số chị em nghệ sĩ của thủ đô đã tổ  chức chào đón và gặp gỡ giao lưu cùng chị. Những điệu múa dân tộc, những  làn điệu dân ca được đan quyện nhau rất tuyệt vời. Những chữ kí của các  nghệ sĩ hai dân tộc được trao nhau đầy ý nghĩa. Đúng lúc đó tiếng còi  báo động của thành phố đã ngân vang. Bọn giặc lái Mỹ, những đồng hương  của chị, xuất hiện trên bầu trời Hà Nội. Tôi rời vườn hoa Giám trở lại  cơ quan, vào vị trí chiến đấu của mình. Cả Hà Nội lao vào cuộc chiến:  tiếng gầm rít của máy bay, tiếng nổ vang rền của tên lửa và súng cao xạ.  Đứng bên cạnh khẩu pháo, tôi thấy mình chao đảo giữa tiếng hát và tiếng  máy bay phản lực, giữa hoa và đạn, giữa bạn và thù. Lúc đó tôi đã phải  thốt lên: "Ôi, sao mà kỳ lạ. Tôi vẫn chỉ là tôi, mà Mỹ lại hai  người!...”. Rồi sau đó chị vượt Trường Sơn vào sâu trong trận tuyến, còn  máy bay Mỹ hàng ngày vẫn thường xuyên đến "thăm" Hà Nội. 
 Có một trận đánh phá Hà Nội đã hằn sâu trong trí nhớ của  tôi. Đó là vào một buổi chiều mùa Thu, trời Hà Nội vẫn còn nắng vàng  rất đẹp, một tốp máy bay phản lực Mỹ đã xâm nhập bầu trời thủ đô và vừa  vào tới nơi chúng đã ném bom xuống bệnh viện Bạch Mai và ga Hàng Cỏ.  Đứng trên sân thượng của khu nhà cao tầng cách ga không xa, cùng trực  chiến với tôi hôm đó có hai anh. Một người có nhà ở một con phố ngay  cạnh ga Hàng Cỏ. Anh run lên, tôi hiểu rằng anh rất sợ, bởi trong cái  mất chung có thể sẽ có cả những mất mát riêng. (Cũng may nhà anh không  bị làm sao). Anh thứ hai đã nghiến răng nghiến lợi bắn hết luôn cả băng  đạn. Còn tôi, hai mắt trân trân nhìn về phía trước, nhìn những cột lửa  cháy rực, sau đó là những cột khói đen cứ cuồn cuộn theo gió bay lên,  làm cả một vùng trời phía nam Hà Nội trở nên xám xịt. Một góc bệnh viện  đã đổ nát, một mái của tháp nhà ga Hàng Cỏ đã bị phá huỷ. Tôi thấy xót  xa, chính mắt mình đã nhìn thấy thủ đô của mình bị tàn phá. Rồi không  hiểu sao tôi đã đạp xe về được tới nhà. Cả đường phố vắng lặng, khu phố  tôi cũng nằm trong trọng điểm vì một bên là cầu Long Biên, một bên là  nhà máy nước, nhà máy điện Yên Phụ. Hình ảnh những quả bom rơi ám ảnh  mãi trong tôi. Tôi thực sự thấy thấm thía những mất mát do chiến tranh  mang đến. Sự cô đơn đã đè nặng tâm hồn tôi. Cha tôi ở chiến trường miền  Nam, anh tôi ở chiến trường miền Trung, mẹ tôi và các em ở nơi sơ tán.  Chính trong sự cô đơn tôi đã quyết định hạnh phúc cho mình. Đám cưới  trong chiến tranh, không pháo, không xe hoa, tiếp khách tại nhà, không  xem tuổi, chẳng xem ngày, nhưng đó là một mối tình có sự đồng điệu về  tính cách, sự hoà hợp giữa hai trái tim.
Nói tới năm 1972 ở Hà Nội là người ta nghĩ tới 12 ngày đêm đánh phá điên  cuồng của Mỹ. Đó là những ngày khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, là  sự chiến đấu kiên cường của người Hà Nội. Mở đầu là chiếc máy bay Mỹ bị  bắn rơi giữa làng hoa Ngọc Hà, rồi trận mưa bom ở bãi An Dương và trong  đêm, khi tiếng chuông nhà thờ còn chưa dứt, bài thánh ca chào mừng chúa  Jexu ra đời còn đang ngân vang thì cả Hà Nội rung chuyển: bom rơi, pháo  nổ, phố Khâm Thiên vùi trong đổ nát và có biết bao nhiêu chiếc khăn tang  đã được chít lên đầu.
Thời gian dần trôi, một phần ba thế kỷ đã qua, Hà Nội thay đổi từng  ngày, nhưng  hình ảnh những cột khói cuồn cuộn bốc lên vào buổi chiều  Thu Hà Nội và những gương mặt rạng ngời vui tươi của những người nghệ sĩ  mãi mãi không phai mờ trong kí ức của tôi.
 Ngọc Thạch (Ba Lan)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét