PHỞ
 Tôi không ăn phở. Tôi theo đạo phở. Đạo của tôi lang bang  lắm vì              ông thần phở vốn là một vị thần lang bang. Phở xuất phát ở  Hà Nội              từ hồi nào, sử sách không thấy ghi. Có lẽ sự ra đời của các  vị thần              đều kỳ bí cho dễ được chúng sinh nể sợ. Chỉ biết ông thần  phở là một              ông... cơ hội. Thấy người ta lang bang, ông cũng lang bang  theo. Ông              theo dân Hà Nội di cư vào Nam, ông theo dân Việt di tản ra  khắp cùng              thế giới. Chỗ nào có người Việt là có phở. Mà có phở thì  chẳng cứ              gì con rồng cháu tiên mà dân nước nào cũng... thần phục. Phở  không              còn là Soupe Tonkinoise hay Vietnamese Beef Noodles Soup mà  đã hiên              ngang được dân quốc tế gọi ngay tên cúng cơm. Danh từ “phở”  đã chễm              chệ trong các tự điển, trong các thực đơn nhà hàng, trong  các sách              dậy nấu ăn... Tây đầm đã uốn giọng “pho”!
            Phở lang bang nên cách hóa thân cũng lang bang. Phở bò, phở  gà, phở              áp chảo, phở tái lăn... Mỗi loại lại có nhiều phiên bản khác  nhau.              Tùy từng thời người ta đã cho phở đi với cà rốt thái nhỏ,  phở ăn đệm              với đu đủ ngâm dấm hoặc cần tây, phở húng lìu, phở đậu  phụ... Láo              lếu! Ông Nguyễn Tuân ông ấy giận. Phở, theo Nguyễn Tuân, chỉ  là phở              thịt chín. Cho thịt tái vào cũng hỏng. Huống chi những thứ  bá láp              khác. Phở, từ khi di cư vào Nam, còn bị cho giao du với giá  sống,              giá trần, các loại rau thơm, tương đen, tương đỏ. Ra tới hải  ngoại,              cũng rứa. Mấy thứ “ăn theo” này sống lâu được với phở có lẽ  vì hợp              với khẩu vị của... đạo hữu. Quen rồi. Không có thì thấy  thiêu thiếu.              Nhiều đạo hữu vào những tiệm phở của người Bắc “ròng” đã  ngẩn ngơ              vì thiếu đĩa giá sống và hai chai tương đỏ tương đen. Ông  Nguyễn Tuân              mà thấy cơ sự này thì phải biết! Ngay tới tôi, một đệ tử...  chân truyền              của phở, mà nhìn những thứ linh tinh này cũng chỉ muốn nhắm  mắt..              cầu nguyện cho sự chính thống của phở. Thi sĩ thì lại khác.  Nhìn đâu              cũng thấy... nên thơ. Như nhà thơ Quan Dương chẳng hạn.
            Tội tình chi mấy cọng rau
            Sao em nỡ ngắt lấy đầu bỏ đuôi
            Mà thôi. Mà cũng đành thôi
            Đầu đuôi gì cũng thơm mùi tay em
Không ăn tương ớt đi kèm
            Chắc là em sợ phải ghen không đành
            Sợ ghen sao nặn nhiều chanh?
            Hay em quá ngọt để dành chút chua?
            Phở vốn lang bang nên mỗi tay nấu là mỗi loại phở, mỗi tiệm  là một              thứ phở. Người ta chỉ đồng ý được với nhau phở là mỗi món ăn  ngon.              Sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào ăn phở cũng được. Phở ngon  từ sáng              tới tối. Nhưng đồng ý được với nhau thế nào là phở ngon thì  chịu.
            Nhà văn Vũ Bằng luận về phở ngon như sau: “Một hàng phở ngon  là một              hàng phở ăn một bát lại muốn ăn hai và nếu còn sức ăn nữa  thì phải              ăn ba không thấy chán. Gặp phải ngày ta se mình, ngửi mùi  thịt thấy              sợ, hàng phở ngon vẫn có thể làm cho ta ăn ngon miệng với  một bát              phở chay, chỉ có bánh và nước thôi. Làm như thế mà ngon, thế  mới là              ngon đấy.”(Miếng Ngon Hà Nội, trang 30)
            Hồi còn ở Saigon phở ngon... của tôi là phở Dậu. Thực ra cái  quán              phở nhỏ trong Cư Xá Công Lý không có tên, thực khách cứ theo  tên chủ              nhân mà đặt tên cho cửa hàng. Hỏi tại sao ngon thì tôi...  bí. Tại              bánh phở mềm, tại thịt thơm, tại nước dùng ngọt? Chịu. Phở  ngon là              một tổng hợp không thể phân tích được. Hay ngon là vì quen  vị? Ăn              mãi hóa quen, đâm ghiền. Người ta có thể ghiền được cả một  mùi hôi              nách, huống chi mùi vị phở! Ngày nay, phở Dậu vẫn còn tuy bà  Dậu đã              xuất ngoại. Người khai thác hiện nay là con trai bà Dậu. Ông  giải              thích rõ cho tôi là bà Dậu là người đầu tiên dựng nên quán  phở này,              sau nhường lại cho bà em. Cái bà mà thực khách chúng tôi kêu  là bà              Dậu thực ra không phải tên Dậu mà là em bà Dậu. Ông chủ hiện  nay là              con bà Dậu... chính gốc. Từ một cái quán nhỏ lợp bằng thứ  tôn vá víu              ngày xưa, phở Dậu ngày nay đã là một căn lầu đúc ba tầng.  Thực khách              tới ăn như... đi hội. Hết lớp này đến lớp khác. Trong những  lần về              Việt Nam mới đây, tôi vẫn quen chân lết tới phở Dậu. Vẫn  được kể là              ngon nhưng vị không còn là vị cũ. Hình như nó thiếu cái mềm  mại của              bàn tay bà Dậu... cũ. Hình như nó thiếu cái tình thân giữa  chủ và              khách. Tôi bỗng nhớ tới những ngày đông khách, hết chỗ, bà  Dậu chỉ              cho tôi vào ngồi nơi một góc bàn lổn nhổn những hành những  rau trong              căn phòng nhỏ bên cạnh, giữa những thùng bánh phở, những  chậu xương...              Chẳng cần hỏi han gì, tô phở nghi ngút khói bưng vào vẫn là  tô phở              thường ngày, của tôi!
            Ông Vũ Bằng bảo muốn biết phở ngon hay không cứ thử nếm một  chút nước              phở trước khi ăn. “Thực ra, điều quan hệ trong một bát phở  là cái              bánh, nhưng thứ nhứt phải cần có nước dùng thật ngọt. Bí  quyết là              ở chỗ đó. Và tất cả những hàng phở ngon đều giữ cái bí quyết  ấy rất              kín đáo, y như người Tầu giữ của, vì thế cho nên trong làng  ăn phở,              vấn đề nước vẫn là một vấn đề then chốt để cho người ta  tranh luận.              Hầu hết người ta đều nhận thấy rằng muốn có một nồi nước  dùng ngon,              cần phải pha mì chính. Nhưng chưa chắc thế đã hoàn toàn là  phải. Thuyết              cho đường nhất định là bị loại rồi. Có người cho rằng phải  có nhiều              đầu cá mực bỏ vào; có người chủ trương cần phải có thứ nước  mắm tốt;              lại có người quả quyết với tôi rằng muốn có nước dùng ngọt,  không              thể thoát được món cua đồng - cua đồng giã nhỏ ra, lọc lấy  nước, cho              vào hầm với nhiều xương ống, nhưng phải chú ý tẩy cho thật  khéo, mà              cũng đừng ninh kỹ quá sợ nồng”.
            Nhà văn Thạch Lam cũng cố lý giải thế nào là một tô phở  ngon. “Nếu              là gánh phở ngon - cả Hà Nội không có đâu làm nhiều - thì  nước dùng              trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ  không dai,              chanh, ớt, với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở  như thế              nữa. Ăn xong bát thứ nhất, lại muốn ăn luôn bát thứ hai. Và  anh hàng              phở chả phải gánh nặng đi đâu cả, chỉ việc đỗ một chỗ nhất  định, cũng              đủ bán một ngày hai gánh như chơi.” (Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố  Phường)
            Giáo Sư Phạm cao Dương cũng mù mịt không kém: “Nguyên liệu  làm phở              rất đơn giản mà cầu kỳ. Đơn giản vì nó chỉ là bột gạo, thịt  bò và              hành ngò. Nhưng nên nhớ là một con bò đứng cạnh đống bột gạo  đang              ăn một bó hành ngò thì không thể gọi là bát phở được. Và  công thức              nấu phở chắc chắn phải là những “bí kíp” vì nấu phở cũng  không phải              là pha trộn theo kiểu thuốc tây để có... chai phở nào cũng  giống y              chang nhau, theo một tiêu chuẩn nhất định...”
            Luận về một tô phở ngon cứ như là thầy bói rờ voi vậy. Chẳng  biết              đâu là bờ là bến. Hay là nó ngon vì những thứ ở ngoài tô  phở?
            Có gì trong bát phở trong?
            Khi em khuấy đũa mềm lòng thế ni?
            Em ăn đừng liếc anh chi
            Hai con mắt nguýt giết người không dao.
            ( Quan Dương)
            Quê quán của phở là Hà Nội. Phở Hà Nội là phở của những nhân  vật tưởng              như đã thành huyền thoại. Như phở Tráng ở Hàng Than, phở Sứt  ở hàng              Khay, phở Lùn, phở Cụt, phở Mũ Đỏ... Đặc điểm của phở Hà Nội  là phở              gánh, phở xe mới là phở ngon. Cứ dời vào tiệm là phở kém hẳn  đi. Ngày              xưa đã từng, ngày nay cũng vậy. Đầu năm 2003, tôi trở lại Hà  Nội sau              nửa thế kỷ xa cách. Lòng vòng ở khu phố cổ, tôi được chỉ tới  một tiệm              phở ngon. Thực khách vòng trong vòng ngoài, chắc ngon thật!  Đây là              tiệm phở tái lăn, thứ phở lần đầu tôi được nghe tên. Thịt  sống được              lăn qua chảo, đảo sơ trước khi trút vào tô phở. Bước vào cửa  là phải              xếp hàng chờ trả tiền. Tiền phải trả trước rồi mới được cho  vào ngồi              bàn chờ. Tôi ngồi trên một chiếc ghế không lưng dựa để dọc  theo vài              dẫy bàn dài chiếm hết chiều ngang tiệm. Bàn ghế cũ kỹ, nhơ  nhớp. Ống              đũa cũng vậy. Đũa cáu bẩn, muỗm nhôm xỉn và dính mỡ. Giấy  lau là giấy              cuộn như giấy vệ sinh. Dưới sàn nhà giấy vứt trắng xóa nằm  lẫn với              vỏ chanh, cọng rau. Tô phở được bưng tới. Tô cũ và mẻ. Nước  phở óng              ánh mỡ. Nhìn là không muốn ăn. Ngon làm sao được?
            Nhà văn Kiệt Tấn, gốc người miền Nam, đầu năm 2002 cũng tới  Hà Nội,              cũng ăn phở Hà Nội, tìm cái ngon của Phở Hà Nội. “Buổi tối  tôi bảo              Tùng dắt chúng tôi đi ăn phở, phở Hà Nội. Phở của sĩ phu Bắc  hà, phở              của Thanh Nam, phở của Mai Thảo “chỉ có dân Bắc Kỳ nêm nếm  là nhất!”,              phở của Nguyễn Tuân, phở của Vũ Bằng thì phải biết! Nhất đấy  các cụ              ạ. Tùng dẫn đến một trạm phở bò nổi tiếng (tên gì?) ở đường  Nguyễn              Du. Đóng cửa. Di tản chiến thuật về một tiệm phở gà gần đó.  Bốn tô              phở gà lớn, thêm một dĩa lòng gà phồn thịnh có trứng non  tăng cường.              Thịt gà xắt nhỏ bốc mùi thơm ngon. Không có rau riếc chi cả,  ăn theo              kiểu Hà Nội mà lị. Được? Ừ, thì cũng cứ gọi là được đi.  Nhưng theo              khẩu vị của tôi nó không sánh bằng cái phở gà di cư đường  Hiền Vương              thuở nào, hay cái phở gà cách tân hải ngoại Tây Mỹ bi giờ.  Nhưng đối              với khẩu vị người Hà Nội, ăn tô phở Hà Nội ngay tại Hà Nội  vẫn cứ              là ngon thì đã sao. Ly kỳ? Thiệt ra chẳng có gì tới mức đáng  gọi là              ly kỳ. Còn nhất thì nhất định là không thể nào nhất được  rồi”. (tạp              chí Văn, Xuân Giáp Thân, 2004)
            Ăn một tô phở, không ngon thì cũng bổ. Này nhé, thịt thà như  thế,              xương cốt như thế, bột gạo như thế, bổ từ trên xuống dưới,  từ trong              ra ngoài là cái chắc.
            Phở là đại bổ, tốt bằng mười thuốc bắc...
            Quế, Phụ, Sâm, Nhung chưa chắc đã hơn gì
            Phở bổ âm dương, phế, thận, can, tỳ
            Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch
            (Tú Mỡ)
            Bổ thường đi với béo. Phở bổ nhưng có phải là nhà cung cấp  cholesterol              chăng? Dược sĩ Trần Việt Hưng đã thử phân tích một tô phở cỡ  medium              ở hải ngoại và đưa ra bảng... phong thần sau:
            - 600 đến 800 calories
            - 70 đến 80 gr chất đạm
            - 60 đến 70 gr chất bột
            Lượng chất béo và cholesterol tùy theo ý thích của thực  khách:
            - Tái trần: 14 gr chất béo; 100 đến 120 mg cholesterol
            - Tái gầu : 40 gr chất béo; 180 đến 210 mg cholesterol
            - Tái nạm vè: 30 gr chất béo; 150 mg cholesterol
            Nếu chơi thêm nước béo thì những con số trên còn... nhảy vọt  hơn nữa.
            Nhưng nếu chịu chơi thì quên tất cả những con số vớ vẩn trên  đi! Như              lời phán của Giáo Sư Phạm cao Dương: “Đã ăn phở thì đừng sợ  chết vì              cholesterol! Vì cholesterol thì để cho Mỹ nó kiêng. Ra  đường...lạng              quạng thì cũng đi tàu suốt. Vậy thì sợ gì cholesterol!”
            Phở... ngon chưa? Cholesterol mà nhằm nhò gì! Nhà nghiên cứu  Phan              Huy Đường còn làm tới hơn. Ông chơi luôn mỡ gầu. “Tôi vào  một tiệm              phở khang trang, sạch sẽ, đủ chỗ ngồi cho khoảng 200 thực  khách. Phục              viên (chủ?) ra lấy order. Tôi bảo:
            - Tôi muốn kêu thêm một bát mỡ gầu, nhưng phải là mỡ gầu  thật mới              kêu.
            - Món ấy ngon dở tùy ngày. Để tôi vào bếp xem hôm nay thế  nào.
            Nàng đi vào bếp một lúc, trở lại nói:
            - Hôm nay ăn được.
            Quả nhiên ăn được thật. Tiếp khách như thế quả là thật thà,  lịch sự.
            Bạn bè dắt đi lùng nhiều tiệm phở trong nhiều tiểu bang, chỉ  có hai              tiệm nấu mỡ gầu ăn được tuy chưa thật ngon. Mỡ gầu là một  thỏi mỡ              chi chít gân, rất khó nấu. Luộc quá đà, mỡ nát nhèo, hôi mùi  mỡ bò,              nuốt không trôi. Luộc chưa tới mức, mỡ cứng, dai, hôi, nhai  không              được, nuốt không trôi. Nấu đúng mức, đúng kiểu, xắt mỏng ra,  những              sợi gân chi chít co lại, xoăn tít, cắn vào, mỡ dòn tan, beo  béo, thơm              thơm, ngon tuyệt vời.”
            (Hợp Lưu, số 76, tháng 4-5/2004)
            Phở là phở, thứ đạo càng ngày càng đông tín đồ, người mình  cũng như              người ngoại quốc. Chẳng cần mời chào người ta vẫn cứ tấp nập  tới xin...              quy y. Nó đang thẩm nhập vào những cái dạ dày còn xa lạ với  những              món ăn Việt nam. Nó đã và đang là Việt nam trước cộng đồng  thế giới.              Ông Nguyễn Văn Khoa, một khuôn mặt rất hoạt động trong Cộng  Đồng Việt              Nam tại nam Cali, mới đây đã cộng tác với Công Ty Quốc Việt  Foods,              để đẩy mạnh việc đưa các món ăn Việt nam, mà phở là một món  chính,              đến các trường học, bệnh viện, sòng bài và các xe lunch.  Phở, như              vậy, đã cất thêm một bước trong việc... truyền đạo. Nó sẽ là  một thứ              đạo ngang hàng với đạo McDonald’s chăng? Được là cái chắc.  Vì tôi              tin như vậy!

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét