Thứ Ba, 21 tháng 7, 2009

TÓC EM CÀI HOA VÀNG

TÓC EM CÀI HOA VÀNG

Trên tóc em đóa hoa vàng rực rỡ

Cánh mong manh như dáng của em yêu
Anh bước theo huyền ảo bóng diễm kiều
Làm giọt nắng thắm hồng đôi má nhỏ

Cho anh yêu buổi ban mai vừa tỏ
Rực màu vàng soi rõ cả lòng anh
Yêu ngất ngây tình trãi cả Trời xanh
Để em co’ hồn anh trong khóe mắt

Vùng tóc em không trâm cài lược giắt
Chỉ hoa vàng em tô điểm tóc mây
Để anh yêu mãi mãi nét thơ ngây
Em, hoa nhỏ, rực đầy tim anh đó

Cho anh yêu cả vầng mây, ngọn gió
Che mát em, gió thoảng tóc vờn vai
Để anh được nhìn những sợi tóc mai
Nhưng không hát bài tình ca ly biệt (*)

Cho anh yêu từng cành non, lá biếc
Có tay em chạm ngắt vội cánh hoa
Cho anh yêu vạn vật dẫu bao la
Bởi vũ trụ có em là tất cả ....

(*)"Tóc mai sợi vắn sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài nghìn năm..."

Thu Liễu .

Mưa, Biển và Nhỏ

Biển hôm nay đẹp lạ lùng anh ạ
Cơn mưa phùn rỉ rả tự đêm qua
Gió thổi run từng ngọn cỏ sau nhà
Đám hoa vàng cũng ngả nghiêng vì bão

Sương giăng kín phủ che mờ hải đảo
Trắng một màu mộng ảo tựa thiên thai
Sóng vỗ bờ xô trải bãi cát dài
Đám rong rêu mệt nhoài phơi thân lạnh

Loài chim biển vẫn từng bầy xoãi cánh
Bay về đâu cho cành nhỏ đơn côi
Lá rũ buồn rơi theo nước cuốn trôi
Chảy ra biển mang nỗi sầu ly biệt

Bóng bóng mưa vỡ oà trong tưởng tiếc
Mất hình hài như đã biết tự lâu
Một bóng tan, bóng khác nổi theo sau
Đời người vốn đâu khác gì anh nhỉ ...

Nhỏ ước gì có anh ngồi thủ thỉ
Chuyện bóng mưa, biển cả với trăng sao
Thật nhỏ nhoi niềm mơ ước ngọt ngào
Sẽ hình thành hay luôn là mộng tưởng

Mưa đã tạnh chiều vẫn mang âm hưởng
Tí tách buồn nghe văng vẳng đâu đây
Trong khoảnh khắc, ơi nỗi nhớ đong đầy
Cho tim buốt, hồn chơi vơi cô quạnh ....

Thu Liễu

Cõi Riêng


Trong giây lát tôi xin dừng chân nghỉ
Bỏ cuộc hành trình đơn độc riêng tôi
Tìm hạnh phúc bình yên thật nhỏ nhoi
Của tận cùng tâm hồn qua nỗi nhớ

Có niềm riêng trung thành như tôi tớ
Dai dẳng hoài trong trí tưởng không xa
Những niềm riêng, tôi muốn "chúng" nhạt nhòa
Đừng xoáy động, đừng làm tôi khắc khoải

Lặng lẽ niềm riêng, một đời uể oải
Bất chợt về hay chưa bỏ ra đi
Tôi chỉ muốn tìm một chút "xuân thì"
Bỏ tất cả để vui như nít trẻ

Tôi vẫn gậm nhấm nỗi buồn cô lẻ
Định mệnh hằn vết sẹo đơn côi
Theo tôi mãi như những cuộc chia phôi
Người ở lại độc hành, mình tôi đó ...

Ơi, tất cả rồi cũng như cơn gió
Muộn phiền, vui rồi đây sẽ buông xuôi
Có tiếc nuối, có yêu dấu ngậm ngùi
Tôi từ bỏ, đồng hành cùng cát bụi ...

Thu Liễu

VẪN CÓ ANH

Anh vẫn bên em giữa cuộc đời
Dẫu là sương khói kỷ niệm thôi
Hãy làm trăng sáng soi song cửa
Soi tận lòng em xoá đơn côi

Hãy ở bên em những chiều vàng
Chơ vơ nhìn lá rụng mùa sang
Anh có thấy hồn em héo úa
Thổn thức tìm anh nối cung đàn

Anh hãy bên em hóa nụ cười
Nổi buồn dịu vợi mắt trong vui
Cho em vững chải bàn chân bước
Ngẩng mặt ngang vai với mọi người

Anh vẫn bên em mỗi sa’ng, chiều
Đường đời muôn ngả nỗi cô liêu
Trong tim sưởi â’m từng đêm gia’
Giữ mãi trong em một tình yêu

Em sẽ có anh cuối đoạn đường
Vòng tay chờ đón với yêu thương
Ta lại cùng nhau về lối cũ
Muôn thuở bên anh, thôi vấn vương

THU LIỄU

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2009

Triết học nhẹ nhàng trong nhạc Trịnh

Triết học nhẹ nhàng trong nhạc Trịnh

Dưới đây là một bài viết về âm nhạc Trịnh Công Sơn qua cái nhìn tinh tế, thấu hiểu của John C. Schafer - một người Mỹ mà qua con đường nghiên cứu và tiếp xúc văn hóa đã trở về với văn hóa Việt.

Đạo Phật với Trịnh Công Sơn là hơi thở là triết học làm cho con người yêu đời hơn chứ không phải là lãng quên sự sống.

Đạo Phật đến với Ông qua nếp sống gia đình, và rồi đi vào âm nhạc của ông ngày càng sâu sắc hơn qua sự trải nghiệm thăng trầm giữa cuộc đời này.

Trịnh Công Sơn có viết: "Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được". Bài này sẽ trình bày rằng thứ "triết học nhẹ nhàng" này chính là triết học Phật giáo.

Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế.Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả. Theo Kinh Kim Cương, Tất cả các pháp hữu vi là “như sương mai, như ánh chớp”. Đây là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đi, nhắc lại trong nhiều lời ca của mình. Giống như con chim ở đậu cành tre và một con cá . . . trong khe nước nguồn, không ai trong chúng ta là những người định cư vĩnh viễn, tất cả đều là những người ở trọ trần gian này. Trong khi tạm cư ở chốn trần gian này chúng ta tìm chỗ ẩn náu trong tình yêu, nhưng rồi tình yêu cũng mất đi.

Tình yêu như tất cả mọi sự khác đều vô thường như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài Đóa hoa vô thường và nhiều bài ca khác.Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn là những lời tuyên bố siêu hình rằng những đổ vỡ tình yêu không phải là những chông gai nho nhỏ trên con đường đời đẹp đẽ vô song. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn, như Hoàng Phủ Ngọc Tường nói, là những “bài kinh cầu bên vực thẳm”.Các bài ca này là những lời nhắc nhở cho chúng ta về lẽ vô thường.

Một đề tài Phật giáo khác trong nhạc Trịnh Công Sơn là thuyết luân hồi. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / Để một mai tôi về làm cát bụi, ông hát trong Cát bụi. Hay Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô, trong Rừng xưa đã khép. Trong các ca khúc của mình Trịnh Công Sơn có vẻ đồng ý với đạo Phật rằng “Hiện tại là hình bóng của quá khứ và tương lai là hình bóng của hiện tại”.

Trịnh Công Sơn cũng tỏ ra chấp nhận thuyết luân hồi của nhà Phật trong những câu mà Trịnh Công Sơn đã làm nhòa nhạt biên giới giữa đi và về, như trong bài Phôi pha:Có những ai xa đời quay về lại / Về lại nơi cuối trời. Nếu chết là để đi đến tái sinh thì khi ta ra đi nghĩa là ta trở lại.Nhìn sống và chết cũng như nhìn nước chảy trên sông và tự hỏi nước đang ra đi hay nước đang trở về.Đó là ý của Trịnh Công Sơn trong Gần như niềm tuyệt vọng: Những ngàn xưa trôi đến bây giờ / Sông ra đi hay mới bước về.

Theo đạo Phật không có cái ta trường cửu nhưng mà có một chút gì trong cái ta đã mất được tiếp nối trong cái ta tái sinh. Quá trình này thường được so sánh như khi ta thắp một cây nến từ một cây nến khác, có cái ra đi và cũng có cái trở lại, một cõi đi về như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài ca cùng nhan đề.

Một ảnh hưởng khác của Phật giáo trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là sự mập mờ và siêu lý luận của các câu văn.Nhạc, lẽ dĩ nhiên là tiếng nói của con tim không phải là của lý trí nhưng sự xác định này cũng chưa đủ dể giải thích tại sao Trịnh Công Sơn có vẻ như không muốn làm cho lời ca rõ ràng.Tôi nghĩ rằng đây là ảnh hưởng của Phật giáo, rằng người ta không thể chỉ ngồi mà lý luận để đi đến một sự bình an cho tâm hồn, rằng ý niệm giác ngộ vượt qua biên giới của ngôn ngữ và lý luận.

Cái mập mờ danh tiếng của Trịnh Công Sơn là do sự phá bỏ biên giới giữa các điều mà chúng ta thường xem là khác biệt, một phương pháp mà Cao Huy Thuần gọi là “đối hợp”. Trịnh Công Sơn hay dùng lối văn đối nghịch, một nghệ thuật ngôn ngữ hay dùng để nhấn mạnh sự khác nhau của hai điều, nhưng ngược lại, Trịnh Công Sơn hay đem đối nghịch làm trùng hợp như trong các câu này: Tình không xa nhưng không thật gần; Không xa đời và cũng không xa một người; Một phố hồng một phố hư không.

Trịnh Công Sơn giống như một nhà thiền sư phủ nhận rằng tuyết thì trắng, quạ thì đen, với mục đích nói lên rằng muốn giác ngộ thì phải tránh xa cái đối lập giữa “có” và “không” để thành một tổng thể hài hòa. Lời ca của Trịnh Công Sơn giống như các công án trong Phật giáo, chẳng hạn như công án nổi tiếng nói về lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay, và cũng giống như công án, bài hát của Trịnh Công Sơn không thể giải thích được bằng đầu óc.

Khi nói về triết lý trong nhạc Trịnh Công Sơn chúng ta cũng cần nói tới ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh nữa. Các bạn thân của Trịnh Công Sơn xác nhận rằng, ông cũng như một số đông các nhà trí thức miền Nam vào cuối thập niên năm mươi và đầu thập niên sáu mươi, rất bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa hiện sinh.

Thái Kim Lan bảo rằng: ở Huế hồi đó nhiều người nói về lo âu (angst), hư vô (nothingness), nôn mửa (nausea) và nỗi hoài công phi lý của Sisyphus.Nguyễn Văn Trung hồi đó mới từ Bỉ về, theo Bửu Ý là “nòng cốt” của các cuộc tranh luận về triết lý tại Huế.Nguyễn Văn Trung viết nhiều bài về hiện sinh và đăng trong tạp chí Đại Học, do ông làm chủ nhiệm.

Các bạn của Trịnh Công Sơn bảo rằng ông rất ham đọc sách của Camus về huyền thoại Sisyphus.Các bạn này cũng bảo Trịnh Công Sơn rất thích các phim trong đó có tài tử James Dean đóng vai của một người lưu lạc cô đơn.Chúng ta thấy hình ảnh chàng cô đơn này trong nhiều bài của Trịnh Công Sơn trong đó có bài Dã tràng ca. Trong bài này Trịnh Công Sơn muốn so sánh mình với Sisyphus, qua một hình ảnh đã được Việt Nam hóa là con dã tràng suốt ngày “xe cát biển đông” trong Nghe thân lưu đày.

Trong cuốn Huyền thoại Sisyphus, Camus nói: trong cái thế giới phi lý này, chúng ta thường hay bị quyến rũ bởi hai cách trốn thoát: một là tự vấn thân xác, hai là tự vẩn triết lý, tức là nuôi dưỡng niềm hy vọng rằng mình sau này khi chết đi sẽ được lên chốn thiên đàng vĩnh cửu.Theo Camus, chúng ta phải từ chối hai con đường giải thoát này và phải chọn một con đường khác: con đường chống đối thế giới phi lý này giống như nhân vật Sisyphus trong huyền thoại vậy.

Ông Nguyễn Văn Trung đã giải thích thuyết của Camus theo một cách khác.Ông viết về tự vẫn triết học như thế này:“Hy vọng một đời khác, hoài niệm một quê nhà sau tù đầy là một cách phủ nhận tình trạng phi lý khác, mà không chấm dứt được phi lý.Camus gọi những giải pháp thoát ly đó là một tự vẫn triết lý (Suicide philosophique)”. Nguyễn Văn Trung cho rằng, theo Camus, chúng ta phải chấp nhận rằng “Tù đày chính là quê nhà”.

Rất có thể Trịnh Công Sơn đã bị ảnh hưởng của Camus qua cách giải thích của Nguyễn Văn Trung.Giáo sư Trung đã Việt Nam hóa lý thuyết về lưu đày và thiên đàng vĩnh cửu của Camus. Lời giải thích của Nguyễn Văn Trung đã làm lẫn lộn hoài vọng về một cõi thiên đàng trong kiếp sau với hoài vọng về quê nhà.

Trịnh Công Sơn quả thật đã bị lôi kéo từ hai dòng lực tù đày và quê nhà.Nhiều đêm muốn đi về con phố xa / Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà, ông đã hát trong Lời thiên thu gọi. Nhưng vì đã được uốn nắn trong một nền văn hóa mà trong đó tình yêu quê nhà đóng một vai trò rất mạnh, Trịnh Công Sơn đã không do dự chọn quê nhà.Ông đã hát Chân đi xa trái tim bên nhà, trong Có nghe đời nghiêngTìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá / Góc phố nào cũng thấy quê nhà trong Tình yêu tìm thấy.

Do đó ta thấy Trịnh Công Sơn không chấp nhận sự nổi loạn chống lại thế giới phi lý như Camus đã cổ võ.Trịnh Công Sơn không thể nào chọn lưu đày làm nơi quê nhà. Tù đày theo Trịnh Công Sơn không phải là sự nổi loạn hiện sinh mà là sự nhìn nhận của một người con Phật trước nỗi khổ và tính cách tạm bợ của cuộc đời: Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây Trịnh Công Sơn hỏi trong Phúc âm buồn. Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này.

Hiện sinh khuyến khích cá nhân đứng lên một mình để chống lại xã hội và văn hóa. Phật giáo, ngược lại, dạy thuyết vô ngã, dạy rằng không có gì khác biệt giữa ta và tha nhân, rằng mọi sự mọi việc trên đời đều hỗ tương ảnh hưởng vào nhau. Tôi tin rằng Trịnh Công Sơn có ý nói đến thuyết vô ngã trong các bài ca của ông.Ông có nói đến “phụ người” như trong bài Ru em nhưng cái buồn của ông thật ra cũng là cái buồn của nhân thế. Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ (Ru em). “Từ bi” có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna), hai đức hạnh mà theo Phật giáo mình nên tu dưỡng.

Lúc mới bắt đầu sự nghiệp, Trịnh Công Sơn cũng như nhiều thanh niên trí thức khác tại miền Nam, thích bàn luận về thuyết hiện sinh.Triết lý nói chung và thuyết hiện sinh nói riêng hồi đó là một đề tài rất phổ thông trong giới trẻ. Các bài hát đầu của Trịnh Công Sơn đã đáp ứng được nguyên vọng này của giới trí thức miền Nam.Phật giáo và hiện sinh quả thật có gần nhau ở một vài điểm.Cả hai đều tin rằng con người phải đối diện với cái chết và với ý niệm hư vô trước khi có thể thực sự sống một đời sống đích thực.

Trịnh Công Sơn lúc mới vào nghề nổi tiếng vì đã “chịu chơi” với thuyết hiện sinh nhưng theo tôi Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhạc của mình dựa trên các đề tài của Phật giáo.Nếu hồi đó ít ai để ý tới cái tính cách Phật giáo trong các bài của ông, có thể là vì Phật giáo và hiện sinh gặp nhau ở một vài điểm và người ta chỉ để ý đến khía cạnh hiện sinh mà thôi.Tuy nhiên lý do chính vì sao Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục thành công trong một thời rất dài là vì những ưu tư có tính cách rất Phật Trịnh Công Sơn đã gởi gắm trong lời ca của mình.

Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh. Nhạc Trịnh Công Sơn khó hiểu nhưng lời ca của ông có khả năng xoa dịu những tâm hồn bị dao động.
__________________
Hãy hướng về phía mặt trời mọc bóng tối sẽ khuất sau lưng anh.

Reply With Quote
Đã có 4 bạn gởi lời Cảm Ơn dành cho vertumnus trong bài viết này:
admin (22-07-2009), GRANDET (22-07-2009), trỉat (05-11-2008), trieuam (07-04-2009)
Old 21-05-2007, 09:34 PM #2
vertumnus's Avatar
vertumnus
Senior Member


Join Date: Jan 2007
Bhutan
Đã Cảm ơn: 9
Được cảm ơn: 223 lần/158 bài
Status:vertumnus is offline

vertumnus is on a distinguished road
Send a message via Yahoo to vertumnus

Default

Dung Nhan Diễm Xưa

Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến trường đại học văn khoa ở Huế.

Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não.

Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua. Những mùa nắng ve
râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa mưa Huế người còn gái ấy đi qua nhòa nhạt trong mưa giữa hai hàng cây long não mờ mịt.

Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường.

Từ balcon nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện có máy nổ và có tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung. Ði để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng, mình là một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng gì đâu.

Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ. Ði để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá thiên nhiên. Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một giòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ, đền đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và một phần nào cũng cứu rỗi cho con người ta khỏi vành đai tục lụy. Và từ đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ những cõi trời đất như không có thực.

Nhưng thật sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá dài lâu, những con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm theo hoa những giấc mơ, giấc mộng của mình.

Ðó cũng là thời gian mà mỗi sớm tinh mơ, mỗi chiều, mỗi tối, tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyền đi trên dòng sông để đến với từng căn nhà khép hờ hay đang đóng kín cửa.

Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình, không màu sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét, mới làm sực tỉnh và bổng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung quanh.

Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Ði đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định. Ðịnh hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân ngày nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoang lạc của giấc mơ.

Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, qua những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối cùng đến một nơi hò hẹn.

Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì trong không gian liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu trai nào cũng sẽ không có thực và sẽ biến mất đi.

Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là Diễm của những ngày xưa.

Trịnh Công Sơn

Reply With Quote



#4
Send a message via Yahoo to vertumnus

Default Những người tình của Trịnh công Sơn

Theo Nguyễn Đắc Xuân (Gia đình)
Mỗi lần nghe người yêu nhạc nói chuyện tình của Trịnh Công Sơn (giai đoạn đầu) tôi bỗng thấy nhớ và tự bảo thầm “nào ai có biết chuyện tình trong nhạc của Sơn cũng chính là chuyện tình của tôi, của thế hệ tuổi tôi”.
Nói như thế bạn đọc sẽ mím môi “thấy sang bắt quàng làm họ”. Nếu không có những giãi bày sau đây thì nghĩ như thế không có gì sai cả.
Thành phố Huế xưa nay vốn rất nhỏ. Người đẹp của núi Ngự sông Hương phần lớn tập trung ở hai ngôi trường Đồng Khánh- Quốc Học, từ sau năm 1957 có thêm Đại học Huế. Thế hệ nào cũng có những giai nhân của riêng mình. Giai nhân có ít mà người mê thì nhiều. Một người đẹp nào đó có hàng chục người “bước theo gót hài”. Tiểu sử của các cô các chàng trai đều thuộc lòng.
Nhưng như chính Xuân Diệu đã từng thú nhận “Yêu rất nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu”. Không “nhận” được vì nhiều lý do: Thời ấy, ít có cô gái Huế nào đẹp mà chịu lấy những chàng trai ngang trang ngang lứa. Các cô gái đẹp thường được cha mẹ gả cho những người đã có danh vọng, có sự nghiệp chắc chắn. Rất hiếm thấy các anh chàng lông bông học hành chưa tới mà có người yêu đẹp xuất thân trong các gia đình gia giáo.
Tuy nhiên trong thế hệ tôi, chính vì các hố ngăn cách ấy đã nảy sinh ra biết bao mối tình thầm lặng, yêu một chiều và khi nó xảy ra với những người về sau xuất chúng như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì chúng trở thành những chuyện tình bất tử.
“Cuối cùng cho một tình yêu”
Tôi có một người bạn gốc Nha Trang, đang học vẽ nhưng anh lại tỏ ra có tài thơ. Anh yêu cô Đỗ Thị Lệ Th. – em gái của một hoạ sĩ Đỗ B. Cô Lệ Th. có mái tóc thề mượt mà, dáng đi nhẹ nhàng dễ thương giống như cái tên Lệ Th. của cô vậy. Những ai đã gặp Lệ Th. thì không thể không mất ngủ vì cô. Anh bạn tôi yêu Lệ Th. và làm thơ lấy biệt hiệu là Th. Nguyệt. Nhưng rất tiếc gia đình Th. Nguyệt rất nghèo, anh lại chưa có sự nghiệp, nên anh đã thua cuộc trước bạn anh là hoạ sĩ Tôn Thất V.
Cùng thắng cuộc theo kiểu của V., có hoạ sĩ Đ.C. với cô T.Nh. Hồi T.Nh. học Đại học Văn khoa, nhiều người phải lòng T.Nh., nhưng trong số ấy không ai tài hoa và kiên trì bằng Đ.C. nên anh đã thắng. Đ.C đã vẽ nhiều tranh lấy cảm hứng từ T.Nh. Xem tranh thiếu nữ của Đ.C., Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường và kể cả người kể lại chuyện này, cũng đều thấy người đẹp của “mình ở trong”.
Ở Đại học Văn khoa Huế lúc ấy lại có cô Trần Thị Nh.H., Nh.H. không nằm trong danh sách người đẹp, nhưng cô hay mặc áo dài tím, với dáng đi “mềm mại như tơ”, hát hay nên H. được mến mộ không kém người đẹp. Hoạ sĩ Trịnh Cung lúc còn học Mỹ thuật Huế rất mê Nh.H. và tuyệt vọng, anh đã làm nên bài thơ Cuối cùng cho một tình yêu. Bài thơ này đã được Trịnh Công Sơn phổ nhạc và nổi tiếng gần bốn mươi năm qua.
Điều không ai hiểu nổi là: “Cho đến nay (2002) Nh.H. đã có gia đình, đã có cháu nội cháu ngoại mà cô vẫn chưa biết bài thơ phổ nhạc bất hủ ấy Trịnh Cung đã làm cho chính Nh.H.” (lời thú nhận của Trịnh Cung với tôi).
Cùng một mẫu yêu như Trịnh Cung, Trịnh Công Sơn đã yêu Ph. Th. – em ruột của ca sĩ Hà Thanh. Bạn âm nhạc của Trịnh Công Sơn lúc ấy có Lê Gia Phàm, Hà Thanh và Thanh Hải (Hồ Quang Hải). Lê Gia Phàm yêu Hà Thanh. Trịnh Công Sơn, Thanh Hải (học Đệ nhất với tôi và bác sĩ Trương Thìn sau này) đều yêu Ph.Th. Và, không chỉ hai người ấy, nói chung những người quen biết gia đình Hà Thanh, hay học cùng một lứa (promotion) với Ph.Th. đều là “đệ tử” trước vẻ đẹp thánh thiện của Ph.Th. cả.
Trong số “bái phục giai nhân Ph.Th.” ấy, Trịnh Công Sơn thuộc loại quán quân. Sau này có lần Trịnh Công Sơn kể lại là: “Hà Thanh có đến bốn năm người em gái, mình ngồi nói chuyện với Hà Thanh, mỗi lần Ph.Th. đến sau lưng mình là mình biết ngay. Khi nào cô ấy đến gần thì có một mùi hương đến trước. Nhờ cái mùi hương ấy mà mình không bao giờ nhầm Ph.Th. với các cô em gái khác của Hà Thanh”.
Chưa bao giờ Trịnh Công Sơn dám tỏ tình với Ph.Th. và Ph.Th. cũng chưa bao giờ có một cử chỉ khiến cho người bạn âm nhạc của chị mình hiểu nhầm là cô có cảm tình riêng với bạn chị. Thế mà Trịnh Công Sơn đã si tình và nhờ cái vẻ đẹp thánh thiện “em đứng lên gọi mưa vào hạ” ấy của Ph.Th. mà anh đã viết nên mấy bài hát Nhìn những mùa thu đi, Nắng thủy tinh, và Gọi tên bốn mùa.
Ph.Th. lập gia đình với ông Tiến sĩ B. làm Trưởng khoa Luật rồi làm Bộ trưởng Giáo dục, “tuổi tác không cân xứng nhưng danh vọng và sắc đẹp thì đẹp đôi”. Sau đó vì thời cuộc Tiến sĩ B. mất sớm, Ph.Th. vẫn giữ sự đoan trang, đức hạnh nuôi dạy các con ăn học đến nơi đến chốn tại Boston (Hoa Kỳ). Cuối năm 2000, gặp lại Hà Thanh và Ph.Th. tại Huế, tôi vẫn thấy hai chị em này “không sợ thời gian”, vẫn đẹp như “nắng thủy tinh” thuở nào. Nhớ lại chuyện xưa, các cô rất vui và xem đó là những kỷ niệm đẹp của giai đoạn đẹp nhất của đời mình. Tuy chỉ mới một chiều, nhưng bạn bè thuở ấy của Trịnh Công Sơn vẫn xem chuyện Trịnh Công Sơn si mê Ph.Th. là “mối tình đầu” của anh.
“Hai mươi năm xin trả nợ dài”
Khoảng năm 1962, gia đình Trịnh Công Sơn gặp khó khăn kinh tế, gian phố lớn ở đường Phan Bội Châu (Ngã Giữa) phải sang cho người khác và qua thuê một căn hộ ở tầng 1 dãy lầu mới xây ở đầu cầu Phủ Cam.
Hằng ngày Trịnh Công Sơn đứng trên lầu ngắm các cô nữ sinh đi qua cầu Phủ Cam, đi dọc theo đường Nguyễn Trường Tộ đến trường Đồng Khánh. Trong đám xuân xanh ấy có cô Ngô Thị Bích Diễm - con gái thầy Ngô Đốc Kh.- người Hà Nội, dạy Pháp văn tại trường Đồng Khánh và trường Quốc Học Huế. Bích Diễm giống bố, người dong dỏng cao, nét mặt thanh tú, bước đi thong thả nhẹ nhàng.
Con người của Diễm rất hợp với cái tên Diễm và cũng thích hợp với tâm hồn bén nhạy của Trịnh Công Sơn. Anh yêu Diễm mê mệt. Những ngày không thấy Diễm đi qua anh đau khổ vô cùng. Anh trông thấy con đường trước nhà “dài hun hút cho mắt thêm sâu” (Diễm xưa). Nhưng anh cũng biết gặp Diễm để nói lên nỗi đau ấy không phải là chuyện dễ.
Thầy Ngô Đốc Kh.- thân sinh của Diễm, là một ông giáo rất nghiêm. Ông không thể chấp nhận một anh chàng chưa có bằng đại học, tóc dài, cằm lún phún râu chuyện trò với các cô con gái đài các của ông. May sao lúc ấy hoạ sĩ Đinh Cường thuê nhà ở gần nhà Diễm để làm xưởng vẽ. Hai bạn canh chừng những khi thầy giáo có giờ dạy, mà Diễm đang ngồi ở nhà học bài thì hai bạn liền “liều” mình qua thăm. Những lần liều đầy mình ấy, có khi Diễm tiếp, có khi Diễm để cho người nhà tiếp và cũng có khi đang có bố ở nhà Diễm tránh để cho khách ngồi chơi xơi nước rồi tự ý ra về.
Khác với Ph.Th., Diễm biết Trịnh Công Sơn yêu mình và trái tim cô nhiều khi cũng rung động. Nhưng lúc ấy Diễm không thể vượt qua được sự nghiêm khắc của gia đình để nói cho tác giả Ướt mi biết điều đó. Trịnh Công Sơn trút hết nỗi lòng yêu Diễm vào bài Diễm xưa như sau này Sơn đã kể lại nhiều lần. Có một điều lúc ấy Sơn không để ý: Những lúc Trịnh Công Sơn đến nhà Diễm, thì Dao A. - em gái của Diễm còn là một cô bé, nhỏ hơn Diễm đến 4-5 tuổi, chạy loăng quăng theo chị. Không ngờ chỉ mấy năm sau Dao A. trở thành một thiếu nữ xinh đẹp với khuôn mặt bầu bĩnh, dễ thương khác thường.
Với cái cầu đã bắc từ hồi yêu Bích Diễm, nay Bích Diễm đã vào học đại học ở Sài Gòn, tâm hồn của Sơn qua cây cầu cũ, nói như Đinh Cường “Sơn lại da diết với cái dáng vẻ khoan thai, áo lụa vàng của Dao A. để rồi thất vọng, để rồi...”. Khác với những lần yêu trước, thất vọng về Dao A.,Trịnh Công Sơn không bắt nhạc của anh phải mang cái gánh thất tình của anh.
Không ngờ hai mươi năm sau, trải qua bao nhiêu dâu bể, từ bên Mỹ, Dao A. trở về Việt Nam tìm Trịnh Công Sơn. Không rõ Dao A. nói gì với Sơn, và còn gì nữa không, mà anh đã rất hài lòng với thực tại “ Hai mươi năm xin trả nợ dài, Trả nợ một đời em đã phụ tôi” (Xin trả nợ người). Trong hai mươi năm ấy, Dao A. đã có gia đình, đã hiểu rõ cuộc đời, nên “hết phụ” tình Trịnh Công Sơn. Như Đinh Cường đã viết: “Tháng cuối cùng trước khi Sơn mất, Dao A. về thăm, suốt tuần sáng nào A. cũng đến ngồi bên chiếc xe lăn của Sơn, chỉ còn biết nhìn Sơn, cho đến chiều tối mới về nhà”.
Trịnh Công Sơn yêu Dao A. phải trải qua hai mươi năm mới “nhận” được lời đáp. Tuy đã quá muộn, nhưng trên cõi đời này có mấy ai được yêu và được nhận có một khoảng cách dài lâu đến thế đâu!
“Coi như phút đó tình cờ”
Gặp người đẹp Trịnh Công Sơn dễ yêu, mà không riêng gì Sơn, các bạn thân sơ của anh cũng đều như thế. Sơn không nề hà chuyện yêu một chiều, không sợ đau khổ vì tình phụ, đã yêu là yêu mãi, yêu hoài, yêu hết mình. Nhưng cũng có lúc anh “chán tình”, vì cho rằng mình yêu nhầm.
Ngày ấy, ở bên kia sông Thọ Lộc, đối bờ với nhà tôi, thuộc phường Vỹ Dạ, có cô nàng tên Nguyệt, rất đẹp. Trịnh Công Sơn đã yêu say đắm. Vô tình, trong lúc nói chuyện với Sơn, cô buột miệng khen một anh chàng nào đó đẹp trai “vì anh ấy lai Tây”.
Chỉ một chuyện vô tình rất nhỏ, thế mà Trịnh Công Sơn cảm thấy bị xúc phạm, anh không thể hiểu nổi một người mình yêu mà lại có một quan niệm thẩm mỹ “lệch lạc” đến như thế. Tất cả những yêu thương Nguyệt trong lòng anh bỗng nhạt nhoà hết. Anh viết bài Nguyệt ca. Anh ca ngợi cô nàng Nguyệt hết lời khi “trăng là Nguyệt”.
Nhưng khi anh phát hiện ra: “Từ trăng thôi là Nguyệt”, Nguyệt không phải là người anh mơ uớc, anh xem chuyện anh yêu Nguyệt “coi như phút đó tình cờ” và về sau anh không nhắc đến Nguyệt nữa. Tuy nhiên đối với tôi và nhiều bạn bè của anh, mong sao Sơn có nhiều dịp yêu “tình cờ” như thế để anh có thêm nhiều Nguyệt ca nữa.
Trịnh Công Sơn yêu rất nhiều, về sau có thêm Bich Kh. (như tôi đã viết nhiều lần), có Chu Nguyệt Ng., có Michiko, có Hồng Nhung... nhưng định mệnh vẫn cứ bắt anh phải đứng trước cái ngưỡng của tình yêu. Nếu anh còn sống thêm vài mươi năm nữa, sẽ “còn ai nữa”... và cũng thế thôi.
Nếu anh bước qua khỏi cái ngưỡng ấy thì chưa chắc anh đã có được cái địa vị “người sáng tác nhiều nhạc tình hay nhất thế kỷ”. Tôi viết điều ấy với kinh nghiệm thực tế. Có một người làm thơ, bạn của Trịnh Công Sơn, cưới được một cô nàng hồi đi học ngồi cạnh Dao A. của Sơn, về sau “người ấy” không còn thơ nữa (đó không phải là một trường hợp cá biệt). Trịnh Công Sơn bị “tình phụ”, còn người ấy lại bị “thơ phụ”.
Hơn sáu mươi năm nhìn lại cuộc đời, tôi xin tạ ơn những giai nhân đã làm “sáng giá” cho tuổi trẻ của chúng tôi. Vẻ đẹp của các cô là hành trang đẹp cho suốt cuộc đời theo đuổi chân thiện mỹ của lứa tuổi tôi. Chúng tôi không những giữ hình ảnh các cô trong tâm hồn mà còn giữ được hình ảnh thực của người đẹp trong các tập album.
Cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, cám ơn Trịnh Cung, cám ơn Đinh Cường... nhờ tài năng của các bạn mà những người đẹp trong tâm hồn, trong các tập album của thế hệ chúng ta trở thành vĩnh cửu.
__________________
Hãy hướng về phía mặt trời mọc bóng tối sẽ khuất sau lưng anh.

Reply With Quote



#5


Private Cuộc Sống Không Thể Thiếu Tình Yêu

Cuộc Sống Không Thể Thiếu Tình Yêu
Trịnh Công Sơn

Quả thật "trong cuộc sống không thể thiếu tình yêu" và lắm khi người ta rơi vào tình trạng "đi thì dở, ở không xong". Hay nói một cách khác, theo nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là "tiến thoái lưỡng nan".

Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài qui luật cả. Nhưng tình yêu hình như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những người quá lạc quan khi nói về tình yêu bằng thể khẳng định. Người ta có thể tin rằng mình được yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không được yêu.

Tôi không thể nói về một vấn đề mà chính bản thân mình cũng chưa hiểu hết. Chưa hiểu hết là nói theo kiểu đại ngôn chứ thật sự là hoàn toàn không thể hiểu. Nếu có người nào đó thách thức tôi một trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà đánh đố. Tôi e, không ai dám tự xưng mình am tường hết nội dung phong phú và quá phức tạp của tình yêu.
Có người yêu thì hạnh phúc; có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con người không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn năm nay con người đã sống và đã yêu - yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế mà đã có không biết bao nhiêu là tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời. Sự giả trá đó lúc biết được thì làm khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể. Người giả, người thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ ngàng không biết thế nào nói được. Người thật thì nằm bệnh, người giả thì nói, cười huyên thuyên. Đời sống vốn không bất công. Người giả trong tình yêu thế nào cũng thiệt. Người thật thế nào cũng được đền bù.

Tình yêu thời nào cũng có. Nhưng có tình yêu kết thúc bi thảm đến độ có khi con người không dám yêu. Yêu mà khổ quá thì yêu làm gì. Có người đã nói như vậy.

Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù sao chăng nữa, tôi vẫn muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: "Cuộc sống không thể thiếu tình yêu, nhưng yêu thì cay đắng lắm".

ST
__________________
www.dactai.com

Reply With Quote




GRANDET's Avatar


GRANDET is on a distinguished road

Default

Người nữ trong nhạc Trịnh Công Sơn

KHUẤt ĐẨU, 02/04/2009

Sau khi anh đi bỏ lại con đường, nhiều người đã nói tới những người nữ mà theo họ là người tình của anh. Một cô con gái yêu của người thầy dạy tiếng Pháp. Một nữ giáo sinh ở sư phạm Qui Nhơn. Một ca sĩ thời danh mà anh viết tặng Ướt Mi. Một người đã có chồng hai con ở Blao. Sau này còn có cả nột nữ doanh nhân thành đạt. Đó là chưa kể đã hai lần, để làm vui lòng mẹ, anh suýt nữa đã lên xe hoa. Có người còn ồn ào tự cho mình là người tình cuối! Nói chung, ai cũng muốn tìm ra một Mộng Cầm hay T.T.KH, những người nữ đã để lại bóng hình khá lộng lẫy trong văn chương Việt.
Nhưng, nhà văn Sâm Thương, bạn thân anh, lại bảo chẳng có người phụ nữ nào in đậm bóng hình lên cuộc đời anh. Tôi cũng tin như vậy mặc dù ai cũng bảo còn Diễm đó. Diễm là ai mà anh gọi thiết tha đến thế trong những cơn mưa trên tầng tháp cổ hay trong những căn gác đìu hiu chiều chủ nhật buồn? Theo tôi Diễm không là ai cả. Diễm là Đẹp, là Nhan Sắc như Nguyên Sa đã từng gọi.
Đã là nghệ sĩ, đương nhiên anh yêu cái Đẹp. (Yêu cái Đẹp chứ không phải gái đẹp). Một người nữ chân dài với ba vòng có số đo tuyệt hảo chưa chắc đã là người Đẹp dưới mắt nhìn của anh.
Người nữ của anh trước hết phải là một người con gái Việt Nam da vàng yêu quê hương như yêu đồng lúa chín. Anh yêu tóc em từng sợi nhỏ nhưng không phải tóc vàng như Cung Trầm Tưởng. Lại càng không phải là gái Phù Tang dù có người đã từng lặn lội sang tìm anh, học tiếng Việt, làm luận án về anh và được trao bằng tiến sĩ.
Nàng đứng bên trời tự do, yêu đời thiết tha, luôn cười đâu đó trong lòng phố xá đông vui. Nàng đi lễ chùa, lễ nhà thờ, qua công viên, với tà áo rộng, với hài nhung gấm, thanh thoát đài trang nhưng không quá kiêu kỳ. Nàng chỉ cườikhông nói, chỉ ngồi hát khi mây bay ngang trời. Nàng muời sáu tuổivới môi hồng đào, tay măng trôi trên vùng tóc dài. Nàng rất gần mà cũng rất xa, rất thực mà cũng rất kỳ ảo. Nàng rất bình thường nhưng không tầm thường. Một người như thế sẽ được Bùi Giáng thốt lên:
Em ơi em đẹp vô củng
Vì em có cái lạ lùng bên trong. Cái lạ lùng bên trong là cái Đẹp, chỉ có những nghệ sĩ sâu sắc như anh hay thi sĩ họ Bùi mới cảm nhận được. Cái Đẹp của hồn thơm cây trái của môi hôn lần đầu, của một chiều kia có em buồn buồn. Cái đẹp thay màu rất chậm, đến nỗi

Một ngàn năm trước(...) môi em hồng nhạt
Một ngàn năm sau môi em hồng vừa. Cái Đẹp gần như ngừng lại, hay anh muốn chậm lại. Vì sao? Vì tôi cần thấy em yêu đời, yêu hoài. Hãy nghe anh nói:
Tôi xin làm chút gió
Mát thêm những bờ vai
Tôi xin làm hôm nay
Cho đời em trẻ mãi

Tôi xin làm mây êm
Trôi vào trang nhật ký
Hay tôi làm mực hồng
Chờ em giữa trang thư. Như thế, anh mãi mãi là người tình của tuổi học trò, của Tuổi Trẻ, không chỉ một thời mà của nhiều thời, không chỉ hôm nay mà của cả ngàn sau.
Môi em cho ta một cánh hồng
Lụa là phút ấy chưa quên.
Một cuộc tình nhỏ bé, bên đôi môi hồng đào thì không có chi là ồn ào, không có chi là đớn đau dù có hơi xót xa, dù có hôn nhau lần đầu cũng là hôn nhau lần cuối. Cho dù anh bảo
Em phụ tôi một thời bé dại
Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Phụ, là cách nói để tiếc thương cho tuổi trẻ đã qua hay đã mất. Mười năm xưa nàng đứng bên bờ dậu khiến lòng anh như khăn mới thêu. Nhưng chỉ mười năm sau, nhìn nhau ôi cũng như mọi người, nên lòng anh buồn như nắng qua đèo.
Từng người tình bỏ ta đi như những giòng sông nhỏ. Buồn nhưng không thể không để sông về với biển, không thể không để các nàng đi về nơi bế bồng. Họ không thể không lớn lên, không thể không lấy chồng, đẻ con.
Thuyền nào đã chở mất thuyền quyên
Với những thuyền bườm lớp lớp ra sông
Xin có lời mừng giữa chén rượu nồng
Phải vậy thôi. Phải rất đàn ông, từ bi, độ lượng. Xin có lời mừng. Không đau đớn tiếc thương đến nỗi phải gào lên như Vũ Hoàng Chương "Tố của Hoàng nay Tố của ai!". Hay như Phạm Duy đắm đuối quằn quại "ngày nhà em pháo nổ, anh cuộn mình trong chăn, như con sâu làm tổ trong trái vải cô đơn, tâm hồn anh nhuốm máu, ôi nhấp chén hư vô"
Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ. Rất bình yên tự tại, bỡi vì còn rất nhiều em bên đời, tuổi mười sáu như mưa vẫn tiếp nối làm đầy nhiều con sông nhỏ khác. Và đời anh vẫn bốn mùa thay lá, vẫn nhớ em và nằm mộng suốt đêm trong thiên đường.

ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG

Đây là bản nhạc lạ thường nhất của anh. Ai cũng bảo anh yêu một nữ tu. Có một vidéo, người ta dàn dựng người nhạc sĩ vội vã chở chiếc chuông đi như chạy trốn một cách phản cảm.
Theo tôi đây là một bản tụng ca Đức Phật, có thể là Phật Quan Âm.
Người nữ ở đây không mười sáu tuổi, không một chiều kia có em buồn buồn, không cười đâu đó trong phố xá đông vui. Một người mà anh đã đi tìm trong xa gần đất trời rộn ràng, trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, tìm trong đàn chim ngậm hạt sương bay. Tìm ngày tìm đêm, bền bĩ một cách lạ thường không bao giờ tuyệt vọng.
Và anh đã gặp một người mình hạc xương mai, với nụ cười mong manh. Nàng tinh khiết như cội nguồn nguyên thủy, nàng ngát hương giữa đôi giòng kinh.
Nàng là Đạo, hay Đạo được anh hoá thân thành Nàng cho gần với Đời. Và nàng tắm gội dưới mưa bốn bề toả ngát hương trầm. Nàng dạy dỗ anh, tan chảy trong anh.
Đạo thấm vào anh, gần gũi đến nỗi có tôi trong dáng em ngồi trước sân. Từ đó hoa là em, một sớm kia rất hồng, nở hết trong hoàng hôn. Nhờ có kinh đắp bồi, nên từ đó anh là đêm nở đóa hoa vô thường.
Khi cái Đẹp lên ngôi (lời kinh là những cái Đẹp) thì sự phụng thờ của anh, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm và tôn thờ cái Đẹp, cuộc trùng phùng chỉ là một tất yếu.

NGƯỜI NỮ ĐẦU TIÊN VÀ NGƯỜI NỮ CUỐI CÙNG

Đó là người đã mang anh đầy bụng. Người đã ru anh từ tiếng khóc ban đầu, ru anh qua cả cuộc đời, và ru anh cho đến lúc bạc đầu.
Người ấy đã ru anh với tiếng hát trên trời để anh được ngủ trên mây.
Người nữ đó không ai khác hơn là Mẹ.
Người anh chịu ơn đầu tiên và chịu ơn cuối cùng. Người dù đã đi về nơi cuối trời vẫn chờ anh để ru anh hoài ru mãi ngàn năm.

NGƯỜI NỮ CAO CẢ VÀ VĨ ĐẠI

Đó là mẹ của những em bé loã lồ khóc tuổi thơ đi. Mẹ cùa những đứa con hai mươi năm đã lớn ra ngoài chiến trường, những đứa con cùng cha vẫn không quên hận thù. Đó còn là người đàn bà hoá điên khi vỗ tay reo mừng xác con, chảy dài giọt lệ ăn năn trong những đêm ngồi nghe đại bác dội về thành phố.
Đó là Mẹ của một nước Việt buồn.
Có thể kết một lời, trong văn học Việt Nam chưa có một tác giả nào yêu người nữ sâu sắc, tinh tế, từ ái và trân quý đến mức phụng thờ như Trịnh Công Sơn./.
KHUẤt ĐẨU
02 tháng 4 năm 2009
http://www.vanchuongviet.org/


Ghi chú :
So với bản đăng trên vanchuongviet.org, để các bạn dễ nhận diện, chúng tôi mạn phép chỉnh nghiêng tất cả các ca từ TCS, và ngược lại trở đứng lời văn của tác giả ẩn trong những dòng trích ca từ, và cũng có khi chúng tôi sửa lại cho đúng với nguyên bản ca từ TCS được trích.
Muốn nắn được một người nữ đẹp “Trịnh” như thế, tác giả cũng đã phải nằm lòng gần ba mươi ca khúc tâm đắc, mà chúng tôi chép tên lại đây, theo thứ tự xuất hiện, để các bạn đỡ thắc mắc, đôi khi: Em đi bỏ lại con đường, Diễm xưa, Lời buồn thánh, Tuổi đời mênh mông, Hoa vàng mấy độ, Ru tình, Thương một người, Còn tuổi nào cho em, Môi hồng đào, Níu tay nghìn trùng, Chìm dưới cơn mưa, Vì tôi cần thấy em yêu đời, Quỳnh hương, Như một vết thương, Có một dòng sông đã qua đời, Tình xa, Vườn xưa, Ru em, Cho đời chút ơn, Đoá hoa vô thường, Lời mẹ ru, Người già em bé, Gia tài của mẹ, Ngủ đi con, Hát trên những xác người, Ca dao mẹ, Đại bác ru đêm.

Cám ơn vanchươngviet.org đã cho phép chúng tôi đăng lại bài này.
(PvĐ, 16/05/2009).
__________________
Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

Reply With Quote

#7


Default

Yêu thương mọi người

Hồi ức của Hoàng Tá Thích. tuoitre.com.vn, 05-04-2007.


Một ngày bỗng thấy, yêu thương mọi người
Mọi người đã tới, vây quanh cuộc đời
Từng giờ tiếc nuối, chia tay ngậm ngùi

(Vẫn nhớ cuộc đời)
TTO - Suốt đời anh Sơn luôn thích có bạn bên mình, hay nói cách khác, anh không thể sống mà thiếu tình bạn. Bạn bè của anh ở khắp nơi trên thế giới, tuy không phải tất cả đều là thâm giao, nhưng đa số là tình bạn trong sáng và bền vững. Mọi người đến với anh vì lòng ngưỡng mộ tài năng, yêu anh vì tính cách đặc biệt và quý anh ì tấm lòng nhân ái.
Ngay từ hồi trẻ, anh cũng đã có nhiều bạn, những giao du không thể không có đối với một người nghệ sĩ đa tài và nổi tiếng khá sớm. Thân thiết nhất lúc bấy giờ gồm có Ngô Kha, Đinh Cường, Tôn Thất Văn, Bửu Ý, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Cung … là những văn nghệ sĩ cùng thời và đồng trang lứa mười tám, đôi mươi. Họ thường lui tới gặp gỡ, đọc cho nhau nghe những vần thơ mới làm xong hay thảo luận một câu chuyện văn chương.
Thỉnh thoảng, anh Sơn đạp xe đến xưởng vẽ của Đinh Cường ngồi nhìn bạn lên màu trên khung vải và làm quen với hội họa từ đó. Bạn thân của anh thời kỳ ấy còn là những Ng.C.Đàm, H.D.Lễ, những L.K.Cương …, tuy không trong giới văn nghệ nhưng có tâm hồn nghệ sĩ. Bạn anh còn là một người tên Đỉnh ẩn cư tận trên dãy Pyrénées giữa Pháp và Tây Ban Nha, thỉnh thoảng gọi điện cho anh kể về đời sống đơn độc của mình trên triền núi, chỉ làm bạn cùng con chó trung thành. Hay N.C.Trung, giáo sư toán học ở Đức, thỉnh thoảng gửi thư cho anh không phải bàn chuyện khoa học mà chỉ là những vần lục bát vừa làm xong. Bạn anh còn là cặp vợ chồng bác sĩ Chi - Hoàn, từ khi định cư ở Cananda chưa một lần về lại Việt Nam nhưng lúc nào cũng quan tâm đến chứng dị ứng trên da mặt của anh.



Bạn anh cũng là một N.C.Phú ở Pháp luôn bận bịu với công việc nhưng không bao giờ quên gửi quà vào đúng ngày sinh nhật 28 tháng 2 cho anh. Mấy chục năm về trước, ngày Ngô Kha hy sinh cho lý tưởng cách mạng, anh đau đớn vì mất một người bạn thâm giao. Khi Lưu Kim Cương bỏ mình trong bom đạn, anh cảm khái nhớ đến nhiều bạn bè khác đã lần lượt ra đi vì chiến tranh. Nhiều người nghĩ rằng ca khúc “Cho một người vừa nằm xuống” anh viết riêng cho Lưu Kim Cương. Thật ra không phải hoàn toàn như thế. Anh viết cho bao nhiêu bạn bè cả hai bên đã nằm xuống trong cuộc chiến dai dẳng này. Là một sĩ quan cao cấp trong quân đội miền Nam, nhưng Lưu Kim Cương đến với anh không phải bằng chức tước hoặc uy quyền mà bằng tấm chân tình, xuất phát từ lòng ngưỡng mộ một người nghệ sĩ trẻ. Nhiều lúc muốn gặp anh, Lưu Kim Cương phải cho một chiếc xe quân sự đi tìm, vì biết chẳng những anh không bao giờ tự ý đến gặp ông, mà còn vì lý do anh tránh đi lại nhiều để khỏi bị rắc rối do tình trạng trốn quân dịch.
Có lần Lưu Kim Cương đã đề nghị tặng anh danh hiệu “sĩ quan không phi hành” để khỏi bị những rắc rối với quân cảnh ngoài đường phố. Nhưng anh đã nhẹ nhàng từ chối với lý do thoạt nghe rất buồn cười: “Lỡ gặp phải sĩ quan nào cao cấp hơn muốn làm khó dễ bắt phải chào mà mình không thích chào thì còn …. rắc rối hơn”. Tính khí khái của anh khiến họ Lưu càng quý trọng hơn, ngược lại anh cũng rất mến Lưu Kim Cương vì mối chân tình ấy. Sau năm 1975, khá nhiều bạn bè anh rời khỏi đất nước. Bù lại, anh có thêm một số bạn từ miền Bắc vào, như các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Quang Sáng; các nhà thơ Xuân Diệu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, rồi nhà phê bình nghệ thuật Thái Bá Vân hay nhà nghiên cứu Hoàng Thiệu Khang …Tất cả đều đã biết tiếng tăm Trịnh Công Sơn qua những ca khúc vang vọng khắp hai miền đất nước trong thời kỳ chiến tranh, nay họ đến tìm anh và trở thành những người bạn mới. Rồi anh gặp Nguyễn Tuân và cả hai nhanh chóng trở thành đôi bạn vong niên.
Nhà văn lão thành đánh giá cao ca từ trong những nhạc phẩm của anh, mà một người giàu chữ nghĩa như ông vẫn cho rằng khó có thể tìm thấy ở một nhạc sĩ khác. Còn anh nể nang Nguyễn Tuân về phong cách hào sảng, lúc nào cũng lịch sự, nho nhã. Những lúc cùng ngồi với nhau bên ly rượu, anh luôn say sưa lắng nghe người bạn già kiến thức vô cùng phong phú này ca tụng những món ăn ngon khắp cả ba miền đất nước. Mấy năm sau, anh có thêm một người bạn vong niên là nhạc sĩ Văn Cao, bậc đàn anh mà lâu nay anh vẫn mong ước được gặp mặt. Lần đó anh ra Hà Nội tham dự một đại hội âm nhạc và đã bỏ về nửa chừng để đến thăm Văn Cao đang ngã bệnh. Yêu tài và mến đức nhau, cả hai chóng trở nên thân thiết mặc dù tuổi tác khá cách xa. Với thời gian, Nguyễn Tuân rồi Văn Cao lần lượt ra đi. Anh gặm nhấm những tiếc thương trong lòng. Nhưng cái chết khiến anh bị chấn động nhiều là của anh Hoàng Thiệu Khang. Anh Khang chuyên về mỹ học nên thường cùng anh luận bàn về cái đẹp, những điều nên thơ trong cuộc sống. Gần như chiều nào anh Khang cũng ghé nhà chuyện trò với anh Sơn một lúc sau giờ làm việc.
Có hôm rảnh rỗi anh ngồi đến khuya, nhờ đó anh Sơn có dịp vẽ cho anh một bức chân dung. Tuy quen nhau chưa đầy mười năm, nhưng tình thân giữa hai người càng ngày càng sâu đậm. Buổi chiều hôm ấy anh Khang điện báo tin bị mệt nên không đến chơi. Chứng huyết áp – căn bệnh nguy hiểm mà anh vẫn rất coi thường – đã quật ngã anh ở cái tuổi mới trên 60. Khi nghe tin dữ, anh Sơn ngồi bất động hàng giờ trên chiếc ghế bành trong phòng khách, nhìn mãi lên chiếc máy lạnh trên tường mà không tin rằng bạn mình đã vĩnh viễn không còn. Chiếc máy lạnh này anh Khang vừa đem đến đổi chiếc máy cũ cho anh Sơn không lâu. Một sự ra đi khác cũng khiến anh hụt hẫng là cái chết của Thái Bá Vân, người chỉ hơn anh khoảng vài tuổi. Thái Bá Vân vào tìm anh Sơn không bao lâu sau ngày đất nước thống nhất. Tuy Hà Nội - Sài Gòn cách trở, thỉnh thoảng anh Thái Bá Vân mới vào Nam, nhưng mối giao tình vẫn ngày càng thắm thiết. Đôi khi nhớ bạn, anh Sơn gửi vé máy bay mời bạn vào chơi. Mỗi lần hội ngộ, rượu không bao giờ vơi, chuyện nói với nhau không bao giờ cạn. Hôm được tin Thái Bá Vân qua đời, anh Sơn cũng đã ngồi hàng giờ trước ly rượu với một nén nhang và chiếc ly thứ hai bên cạnh dành cho người quá cố.



Lúc này, khi đã bước vào độ tuổi tri thiên mệnh, những mất mát thật là một gánh nặng vì hơn bao giờ hết anh rất cần có những người bạn tâm giao. Nếu thời kỳ trước năm 1975 có rất nhiều người thuộc mọi giai cấp, kể cả những quan chức, tướng lĩnh của chế độ cũ yêu thương anh bằng một tình bạn thuần túy, thì thời kỳ sau năm 1975 cũng có rất nhiều người thuộc đủ thành phần trong xã hội ngưỡng mộ tài năng mà yêu mến Trịnh Công Sơn với sự chân thành. Nhưng những bạn bè cũ đã ra đi thì không biết được gì về đời sống của Trịnh Công Sơn sau ngày đất nước thống nhất, ngược lại những người bạn mới lại không biết rõ cuộc đời anh trước đó. Những lúc buồn, anh hay để tâm trí quay về thời còn trẻ và chỉ ước ao có được một người bạn thuở xa xưa bên cạnh để cùng nhau tâm sự, nhắc nhở những kỷ niệm đã qua. Bạn bè cùng thời không còn lại bao nhiêu, Bửu Chỉ, Bửu Ý đều ở cả ngoài Huế, Đinh Cường thì xa xôi cả nửa vòng trái đất, Bùi Giáng giờ đây đã không còn. Nhưng nếu có Bùi Giáng thì chắc cái huyên náo không ngừng của thi sĩ độc đáo ấy cũng sẽ làm cho anh thấy mệt mỏi. Ở tuổi 50, anh cần sự tĩnh lặng.
Những lúc cảm thấy quá cô đơn, anh thường bắt điện thoại gọi bất cứ người nào quen biết. Rất may, những bạn trẻ như Phạm Phú Ngọc Trai, Huỳnh Thiện, Huỳnh Phi Long, Sâm Thương… lúc nào cũng sẵn lòng bỏ thì giờ để đến với anh. Tuy hầu hết không phải là nghệ sĩ nhưng họ đều quý thương anh, xuất phát từ lòng ngưỡng mộ ban đầu và về lâu dài chính là từ sự trải lòng của anh đối với bạn bè.Trong số này, có thể nói Phạm Phú Ngọc Trai là người có nhiều kỷ niệm nhất với anh Sơn. Dù chỉ hơn 10 năm quen biết, anh đã xem Trai như một người bạn thâm giao, còn Trai quan tâm chăm sóc anh chẳng khác nào ruột thịt. Những dịp đang viễn du xứ người, bận rộn đến đâu anh cũng dành thì giờ viết thư về cho Trai, dù chỉ vài dòng thăm hỏi. Nhìn bức chân dung anh vẽ cho Trai, mọi người có thể thấy được tình cảm anh đối người bạn này. Xưa nay anh ít khi viết nhạc cho một người bạn trai, nhưng “Sóng về đâu?” là bản nhạc anh Sơn viết tặng riêng Trai. Đó là vào một buổi tối trên bãi biển Nha Trang, trong tiếng sóng vỗ ầm ì vào bờ cát anh tưởng như nghe được tiếng thở dài của người bạn trẻ đang đương đầu với con sóng lớn của cuộc đời. Anh lâm râm niệm một câu kinh Bát Nhã: Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha ! Và thầm thì với biển: “Biển sóng, biển sóng, đừng xô (bạn) tôi, đừng xô (bạn) tôi ngã dưới chân người”.
Bình thường trong bữa ăn, Huỳnh Phi Long lúc nào cũng được anh quan tâm. Bất cứ lúc nào anh cần sự có mặt của một người bạn bên cạnh chỉ để nói chuyện gẫu, thì Sâm Thương hay Lữ Quỳnh đều sẵn sàng có mặt. Cũng có những người bạn rất thân nhưng lại không thường gặp nhau dù cùng ở trong một thành phố. Họa sĩ Nguyễn Trung chẳng hạn. Anh quý chất nghệ sĩ thực sự của người bạn tài hoa này và vẫn tán dương vẻ sang trọng của tranh Nguyễn Trung, kể cả tranh trừu tượng. Ngược lại, Nguyễn Trung nhận định dù không được đào tạo chính quy nhưng Trịnh Công Sơn là một họa sĩ đích thực, chưa kể chính nhờ không qua trường lớp mà anh có thể đưa lên khung vải những ý tưởng của mình một cách tự do. Hoặc những giao tình của anh với những bạn bè như Trần Trọng Thức, Lý Quí Chung, Nguyễn Công Khế, mà mỗi lần nhắc đến họ anh đều bày tỏ lòng quý mến sâu sắc.



Trong những ngày sức khỏe anh kiệt quệ, không thể tự lo cho mình được, thì các em trai em gái trong gia đình thay nhau chăm sóc anh. Nhưng thỉnh thoảng, anh cũng thuận để cho Huỳnh Thiện đút cơm, cho thấy anh rất quý thương người bạn trẻ này. Ngược lại Huỳnh Thiện lúc nào cũng hết lòng vì anh. Anh luôn luôn tỏ ra thân ái và lịch sự với tất cả mọi người, ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ. Có lần sau buổi thăm viếng, một thanh niên trẻ đã xúc động nói: “Em không ngờ lại có ngày được ngồi đối diện với chú Sơn và được chú chuyện trò như một người bạn”. Trịnh Công Sơn là như thế. Mặt khác, anh cũng chịu khó chia sẻ với bạn bè, chẳng hạn người ta có thể bắt gặp - trong một góc quán nước nào đó dưới phố - anh ngồi yên lặng chăm chú lắng nghe người bạn tên Xu tâm sự. Còn Đoàn Khoa vẫn giữ một kỷ niệm đẹp với anh Sơn từ khi người đạo diễn này còn chưa thành danh.
Trong lần gặp gỡ tình cờ tại một quán nước, Đoàn Khoa được giới thiệu với anh Sơn. Hôm ấy Khoa khiêm tốn ngồi im lặng bên ly nước cam lắng nghe câu chuyện rôm rả giữa những bậc đàn anh. Sau đó mọi người kéo nhau về nhà anh Sơn tiếp tục vừa uống rượu vừa trò chuyện. Anh Sơn bảo người nhà đi mua một chai nước cam cho Đoàn Khoa, vì anh chú ý nãy giờ chỉ mình chàng trai trẻ ấy không uống rượu. Điều này khiến Đoàn Khoa hết sức xúc động và nhớ mãi không bao giờ quên. Không phải chỉ với Đoàn Khoa anh Sơn mới tỉ mỉ như thế mà đó chính là tính cách của anh. Khi nghe bạn bè kể việc một đại gia có căn nhà to lớn lộng lẫy, anh trầm trồ thán phục; nghe nói về một người tài năng xuất chúng trong bất cứ lãnh vực nào, anh đều lấy làm thú vị; ai đó bàn chuyện một doanh nhân thành công giàu có ức triệu, anh cũng lắng nghe.
Nhưng khi chính những nhân vật đó ngồi trước mặt thì anh cư xử với họ niềm nở và thân tình không khác bất cứ một người bạn nào lâu nay vẫn thường đến chuyện trò với mình. Có lần một người bạn ở xa lâu ngày không gặp, khi về nước đã mời anh đến nghe buổi nói chuyện về một đề tài triết học khá mới mẻ. Hỏi cảm tưởng của anh sau khi tham dự buổi nói chuyện này, anh cười: “Trong hàng ngàn câu chuyện lạ lẫm mà họ nói, dẫu sao mình cũng thu lượm được một vài điều chưa biết”. Anh Sơn là như thế, lúc nào cũng khiêm tốn và chịu lắng nghe, lại luôn luôn nhã nhặn, lịch sự với mọi người. Ngay cả với bạn bè thân thiết nhau lâu năm, hiếm khi thấy anh mặc áo quần ngủ để tiếp khách đến chơi nhà. Hồi trẻ, anh Sơn vẫn thích rày đây mai đó để có cơ hội gặp gỡ nhiều người. Ở cái tuổi cần có bạn bè nhất anh lại ít di chuyển vì sức khỏe không cho phép. Nhưng vẫn không thể thiếu bạn bè. Thường gọi điện mời anh Tương Lai đến để thảo luận về một suy nghĩ mới. Hay vui vẻ lắng nghe Thanh Tùng hát một đoạn nhạc vừa mới sáng tác. Thú vị với một Mạnh Đạt với cây accordeon – đôi lúc làm phiền giấc ngủ hàng xóm – biểu diễn vài ca khúc anh đã sáng tác từ rất lâu mà chính anh cũng đã quên.
Cảm thấy êm ả với tiếng kèn saxo thổi bài “Hạ trắng” hay “Tiến thoái lưỡng nan” ngay khi Mạnh Tuấn chưa bước chân hẳn vào nhà. Đôi khi có khá nhiều người biết chơi piano ngồi quanh, nhưng những lúc hát cho bạn bè nghe ở nhà thì anh chỉ muốn kiến trúc sư Trần Minh Tâm hoặc Bùi Thân Thiện Khanh đệm đàn cho mình. Trong những ngày không thể uống rượu được nữa, anh vẫn bảo người nhà chuẩn bị sẵn sàng nước đá và soda cho bạn bè sắp đến chơi, rồi thoải mái ngồi nhìn Huỳnh Phi Long, Từ Huy, Bảo Phúc … nhấm nháp chút rượu. Không được uống rượu thật là một hình phạt đối với anh. Một điều chắc chắn là lúc nào anh cũng thèm rượu như thèm bạn bè. Nhưng rượu thì có thể đành đoạn dứt bỏ, chứ bạn bè thì không. Đó là một trong những tiến thoái lưỡng nam của anh, bởi vì dù không phải bạn bè đến với anh chỉ nhằm mục đích uống rượu, nhưng rượu là thứ không thể thiếu lúc họ ngồi với nhau.
Bửu Chỉ khi quá chén thường ăn nói bừa bãi đôi khi làm nhiều người không vui, nhưng riêng anh chỉ ngồi cười. Bởi dưới mắt anh đó không phải là một đệ tử lưu linh đang say mèm mà vẫn là một Bửu Chỉ từ hơn 20 năm qua lúc nào cũng ở cạnh anh, người từng cắm cúi vẽ minh họa cho các tuyển tập Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời của anh mấy chục năm về trước. Ngày mồng một tháng tư, Bửu Chỉ đã từ Huế bay vào gục trên quan tài anh mà khóc như một đứa trẻ. Giờ thì họ đã hội ngộ ở nơi xa xôi ấy. Anh không cần phải rót một ly rượu để tưởng nhớ người đã khuất. Kể cho hết những bạn bè của anh Sơn, thực chẳng phải dễ dàng. Còn biết bao nhiêu người bạn trong mọi lãnh vực, tuy không thường đến với nhau, nhưng luôn luôn giữ lòng thương yêu ngưỡng mộ đối với anh. Bởi dù họ có kém anh mười lăm mười bảy tuổi, anh cũng đều gần gũi. Hay lớn hơn mười lăm mười bảy tuổi, cũng là bạn vong niên tri kỷ. Nguyên tắc của Trịnh Công Sơn là hễ ai thương yêu mình thì mình cũng quý trọng người đó. Thật ra, trong đời anh cũng gặp phải vài người bạn bỗng nhiên trở mặt. Và anh cũng đã từng từ chối mời rượu một người trước đó vốn rất thân thiết. Anh cũng có lần sắp sửa hạ bút ký tên trên một bức thư gửi cho bạn bè tuyên bố chấm dứt quan hệ với một người bạn thân khác.
Anh lại từng phàn nàn về một người bạn tưởng rất thân thiết không ngờ đã ngỏ ý không muốn thấy anh ngồi thản nhiên uống rượu trước mặt họ. Nhưng cuối cùng anh lại thở dài với hai chữ “thôi kệ” quen thuộc, để rồi nhanh chóng quên đi những muộn phiền và không bao giờ giữ mối hiềm khích trong lòng. Cũng như chẳng bao giờ anh có thể đoạn tuyệt với người nào trước đây đã từng là bạn. Anh có thể nuốt vào lòng một nỗi đắng cay để sau đó hồn hậu nở một nụ cười nhân ái với mọi người. Đó chính là tính cách Trịnh Công Sơn. Vô chiêu thắng hữu chiêu. Những người đã có lúc làm anh phiền lòng, vì nhiều lý do – đôi khi chỉ vì chút danh vọng hảo – lại quay về với anh.
Không bao giờ anh nhắc đến chuyện cũ. Nếu tình yêu là một thứ hạnh phúc thì bạn bè là một nhu cầu quan trọng trong suốt cả cuộc đời anh. Khi tình bạn đạt đến mức sâu sắc cao độ thì giữa Lưu Chính Phong và Khúc Dương chẳng còn nhìn nhau là tà hay là chính, sự khác biệt đã được hóa giải giữa hai tâm hồn đồng thanh, đồng điệu, đồng cảm để chỉ còn lại một khúc Tiếu ngạo giang hồ thâm sâu tri kỷ, không phân biệt tuổi tác, không câu nệ vị trí xã hội hay tài năng.
Hoàng Tá Thích

tuoitre.com.vn, 05-04-2007
__________________
Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

Reply With Quote
#8
GRANDET's Avatar


GRANDET is on a distinguished road

Default

Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn

Ngô Văn Tao, Tết Đinh Hợi, 2007.

Bùi Giáng bản chất là nhà thơ. Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ nhưng lời ca rất thơ. Hai nghệ sĩ, với sự nghiệp trải dài từ những năm 60 cho đến tận cuối thế kỷ thứ 20, cùng chìm đắm trong nghệ thuật. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS) làm thơ rất nhiều và đặc biệt những năm cuối đời say mê vẽ: ký hoạ và vẽ sơn dầu những bức chân dung thơ mộng. Ngoài là nhà thơ, thi sĩ Bùi Giáng (BG) còn là một tư tưởng gia. Ông đã nhận định cùng với M. Heidegger rằng thi ca và nghệ thuật mới thật là “bản thể” của vũ trụ hiện sinh con người (chứ không phải lý tính, khoa học, lý luận cò ke đo đếm một hai). BG cũng đã từng vật lộn với “cái cọ sơn dầu” (nhưng gần như thôi hẳn, chỉ còn nâng cọ một đôi khi từ năm 1967, sau một trận hoả hoạn cháy tan nhà trọ với những bức tranh của nhà thơ). Và bức tranh mực màu trên giấy: “Quê chàng là Ithaque” - một trong hai ba bức tranh may còn lưu lại – đã chứng tỏ tiềm năng nghệ thuật thật sự của nhà thơ.
Nghệ thuật của BG và TCS có chung một điểm là sự hồn nhiên lãng mạn trước cuộc đời. Mọi sáng tác nghệ thuật của TCS, những câu ca, một bài thơ hay một bức hoạ, đều tràn trề tình cảm sống thật của chính mình, nuối tiếc một mối tình, nhớ thương một người thân, đau lòng trước sự phù du của đời người, tiếc thương mạng sống mong manh quý báu giữa cái tàn bạo của chiến tranh (TCS đã nhiều năm trốn lính). Những áng văn thơ của BG suy tư sâu xa, khó hiểu hơn, nhưng thật cũng vô cùng hồn nhiên lãng mạn: hồn nhiên lãng mạn trong cái bay bổng ngôn từ say mê diễn giải tư tưởng đến tự bốn phương, say mê sống tràn trề trong vũ trụ hiện sinh của chính mình. Cái đặc điểm rõ nhất là hai nghệ sĩ, hai nhà thơ của chúng ta, là họ đều rất thân thuộc với thể thơ lục bát của thi ca Việt Nam : một thể thơ tự nó, với truyền thống của ca dao và của Nguyễn Du, có nhịp điệu bình dị thi ca, dàn trải tình tứ. Trong thơ BG thì những nét này đã rõ. Còn ở TCS, ngoài những bài hát đều hàm chứa chất thơ, thơ TCS thường là thơ tự do, tự nó có vần điệu và nhịp hát không bắt buộc phải theo một luật âm vận nào, nhưng một phần lớn cũng là những bài thơ lục bát, hai hay bốn câu, hồn nhiên tràn trề tình yêu hay lãng mạn tình cảm:

Mùi hương má cũ muộn màng
Ghé môi tư lự nỗi bàng hoàng xưa
Nắng phai lời giã biệt từ
Nhớ thêm một chút hương mù mịt xa
(TCS, Montréal, 17.5.1992)
Trong những năm 60, thời mà BG với “Mưa nguồn”, TCS với những bài ca tình yêu và phản chiến bắt đầu sôi nổi trong đời sống văn nghệ, còn có một trường phái văn nghệ đáng kể: “Nhóm Sáng Tạo”. Nhóm Sáng Tạo gồm nhiều văn nghệ sĩ. Trong hội hoạ - theo tôi biết - có Thái Tuấn, Ngọc Dũng, trong văn thơ phải nói tới Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Cung Trầm Tưởng... Nhóm văn nghệ sĩ này có lẽ đầu tiên theo thuyết hiện sinh của J.P. Sartre, nhưng về sau cốt yếu là canh tân, hay nói một cách khác sâu xa hơn, họ chính là tiền thân của những nhà văn thơ “hậu hiện đại” của Việt Nam. Nhưng nhóm Sáng Tạo có một lịch trình suy tư lý thuyết, có một bối cảnh lịch sử rõ rệt, tranh đấu chống lại Chủ Nghĩa Xã Hội, chống lại “Đề cương Việt Minh – Văn nghệ vị nhân sinh, hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Trường Chinh). Nhóm này thân thuộc với BG, mà BG cũng rất tâm đắc với lý thuyết thi ca nghệ thuật hiện tượng học của Hiedegger, triết lý tư tưởng tiền bối của thuyết hiện sinh. Đại diện cho nhóm Sáng Tạo chính là Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền. Mai Thảo là tiểu thuyết gia duy mỹ chủ thể hình thức. Thanh Tâm Tuyền viết văn và làm thơ với lập trường lý thuyết. Dĩ nhiên là nhóm Sáng Tạo xa lánh TCS, mà nghệ thuật lời ca hồn nhiên bình dị đi thẳng vào lòng quần chúng. Tôi nhớ mãi bữa cơm chiều (Bún Bò Huế) mà hai vợ chồng hoạ sĩ Đinh Cường đãi Thanh Tâm Tuyền, TCS và tôi tháng 5 năm 1988 ở một chung cư tại Sài Gòn. Tôi nhớ mãi cái bữa gặp gỡ tẻ nhạt, bầu không khí nặng nề Thanh Tâm Tuyền không nói thẳng với TCS một lời. Sau rồi tôi biết Thanh Tâm Tuyền đã bị cầm giam mấy năm trời trong trại cải tạo của nhà nươc xã hội chủ nghĩa, trong khi TCS năm ấy đã là uỷ viên trong ban thường trực của “Hội Nhạc Sĩ thành phố Hồ Chí Minh”. Khi TCS đi thăm Canada 1992, những văn nghệ sĩ Việt Nam lưu vong, thường tự nhận là thuộc nhóm Sáng Tạo, công khai cách ly TCS. Nếu không nói tới sự khác biệt trong quan niệm nghệ thuật, theo tôi nghĩ tất cả đã hiểu lầm nhau. Bài ca “Em còn nhớ hay em đã quên” chẳng hạn, với câu “em ra đi nơi này vẫn thế” (mà theo đám văn nghệ sĩ lưu vong đáng nhẽ phải nói rõ rằng “nơi này đã thành một chốn đoạ đầy lao ngục”), không nói gì khác là đau lòng nhớ thương các em gái của mình (đã liều lĩnh lên thuyền ra đi tị nạn) và nhạc sĩ vẫn thầm tự nhủ rằng cái cõi tạm đen tối này tuy nhiên bao giờ cũng thế với thiên nhiên với tình người dù dưới áp chế của bất cứ một sức mạnh nào (mà thật vậy, Sài Gòn ngày nay với kinh tế tư bản thị trường đâu còn khác Sài Gòn của ngày xưa!).






Giữa BG và TCS trái lại có một thâm tình tương giao thị tôn kín đáo. Cũng trong tháng 5 năm 1988, tôi còn giữ một kỷ niệm không bao giờ quên. Một buổi chiều, TCS đãi một bữa cơm rượu vodka dưới gốc cây si ở nhà Trịnh Xuân Tịnh, em trai cuả nhạc sĩ (cái biệt thự thời Tây mà nay là quán ăn Ba Miền của Sài thành). Bữa cơm cốt để cho tôi làm quen với BG:

Chịu chơi Hộ Trịnh Công Sờn
Cửa trời rộng mở rập rờn hoàng hoa
Chào nhau giữa những vốc-ka
Liên Xô số dzách ngộc ng
...
(Bùi Giáng, 5.1988)

Đó là mấy câu thơ Bùi Giáng viết trên bức ký hoạ TCS vẽ chân dung BG ngay chiều hôm ấy! Một chân dung sâu sắc, lộ hết tinh thần của nhà thơ, tài nghệ vượt hẳn các chân dung người ta vẽ BG mà chúng ta thường thấy. Chính bữa cơm rượu từ đó đã mở cho tôi cả một hành trình dài học hỏi tràn trề cảm hứng, giao lưu thâm tình đàm thoại với BG suốt mười năm, cho đến tận khi nhà thơ rời bỏ cõi đời. Mười hai giờ trước khi đột quỵ, BG tuy rất yếu, vẫn để lại cho tôi ba câu thơ, ba câu đó đã được khắc trên bia bên mộ nhà thơ:

Đương thì nhật nguyệt trôi qua
Tha hương cố quận lạc hoa một nhành
Trường miên nguyện ngủ dưới ngành tùng trăng
(14 tháng Tám Mậu Dần -1998) (phỏng dịch ba câu Hán Tự Hài Cú: Nhật nguyệt đương thì quá/ Tha hương cố quốc lạc chi mai/ Tùng hạ nguyện trường miên- NVT).


Cũng trong mấy tháng hè năm 1988 đó, nhân sẵn có tôi, BG thường lại ăn cơm trưa uống rượu vang đỏ ở sân nhà của TCS. Ở TCS, tôi thu nhận sự trầm lặng suy tư thật lâu rồi mới hạ bút sáng tác của anh; và một khi sáng tác rồi, nếu đấy là một bài ca, TCS không ngần ngại hát đi hát lại mấy ngày liền, và cũng không đắn đo sửa chữa một vài nốt nhạc hay từ ngữ... Trái lại, BG một khi đã cầm bút thì tức khắc viết tràn lan như không suy nghĩ hay đúng hơn như mang sẵn trong tâm trí từ lâu rồi cả một kho tàng tư liệu văn chương triết lý, giờ chỉ cần cho ý thơ và tư tưởng tự tuôn trào. Tôi nhớ một sự kiện điển hình: một lần, tôi nhờ nhà thơ đề tặng TCS một quyển thơ, BG không một giây suy nghĩ, hạ bút viết ngay trên trang nhất những chữ Hán tượng hình:

Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ
Trùng lai sơn hạ Quế giang thâm
(Nguyễn Du) (Tôi có chút tâm tình không đủ lời giãi tỏ, xin trở về như sông Quế nằm sâu dưới chân núi (Sơn)).

Hai nghệ sĩ tài danh của chúng ta vừa có những điểm chung và cũng có những khác biệt rất riêng. Trước hết là BG và TCS đều có quan niệm rằng nghệ thuật không thể ẩn dụ một lý thuyết nào - trái ngược với nhóm Sáng Tạo, khi cho rằng nghệ thuật phải là tư duy nằm ngoài thời sự, ngoài những chuyện nhân sinh tức thời hay những xu thế thời thượng. Người nghệ sĩ phải có hoài bão vượt thời gian, tìm về cái uyên nguyên vĩnh hằng của con người như tình yêu, khắc khoải, cô đơn và vị tha, tự cảm nhận sự khiếm khuyết trong thân phận làm người. Người nghệ sĩ phải biết thương cho những kẻ sa đoạ, khóc cho những người ngã ngựa, phủ nhận những chiến công... BG thường tự nói:

Quan tâm ngày thu lượm
Bàng quan với ngày mai thế sự
(BG dịch René Char).
Những bài ca phản chiến của TCS tưởng là nói đến chiến tranh nhưng sự thật là nói về cái khát vọng hoà bình thân ái của con người sống với đau khổ và chết chóc tang thương.Trong những bài ca của TCS không có thù và bạn, những chọn lựa này chỉ có tính cách giao thời, thay biến mỗi khi chúng ta nhìn lại lịch sử. BG mãi mãi là hành giả chân đất, áo quần tả tơi lang thang ngoài ước lệ xã hội của con người, lững thững qua các thời đại. TCS, trái lại, chấp nhận dửng dưng vui chơi hoà đồng, nên vì thế biết rõ mặt trái không hay ho gì của những quân nhân, chính trị gia của miền Nam Việt Nam và cũng biết rõ mặt thật tham lam nhỏ nhen, bề ngoài đạo đức nhưng đầy tham muốn tiền tài danh vọng của những cán bộ quan liêu bàn giấy của cách mạng. Vì thế thái độ TCS có tính cách thoả hiệp với cuộc đời, cũng chỉ vì nếu một nghệ sĩ chân chính nhất định không chấp nhận những tục luỵ bi thương của con người thì gia đình anh cũng như chính anh sẽ không còn chỗ dung thân.

Nghĩ cho cùng, có cả một hố sâu ngăn cách BG với TCS. BG chọn làm thi sĩ cùng với thảm kịch nhân sinh của thi nhân, của Phạm Thái xa lánh cõi đời:

Ba mươi sáu tuổi là bao nả
Năm sáu đời vua khếu chán ghê
Một tập thơ sầu ngâm sang sảng
Vài nai rượu kết ních tì tì ...
(những câu thơ của Phạm Thái mà BG thường tự đọc lại),
của Nguyễn Bính khi chết “miệng vẫn tòm tem thèm miếng cơm”
(thơ của Trần Mạnh Hảo).

Từ cuối năm 1988 – khi chính trị và kinh tế Việt Nam bắt đầu đổi mới, sự giàu sang được bộc lộ - TCS đã sống trong một thế giới xa hoa quyền quý mà không một nghệ sĩ Việt Nam nào từng được hưởng thụ. Nhưng trước khi sự giàu sang đến ngăn cách con người, BG vẫn thường bất chợt lui tới nhà TCS và được mẹ Sơn hay các em sẵn sàng đãi bữa cơm, chén rượu...Cái thời khó khăn vừa sau 1975 với cái nên thơ tình người, nhà thơ vẫn giữ những hồi tưởng êm dịu của sự bao dung nhân ái, hiền hoà thân thiết:

Trịnh Công Sơn
(...)
Ồ bạn ạ! Ồ người ôi!
Ai đi vô tận tôi ngồi ngu ngơ
Chẳng bao giờ kể chẳng ngờ
Rằng tình mộng tưởng không giờ xẻ chia
Không từ sương sớm trăng khuya
Không trăm năm cõi một rìa mép mao
Tuy nhiên ngoài luỹ trong hào
Còn rơi rớt chút hoàng mao A Đầu ...
(B.G. trong tập “Vào chung cục thơ”). (hoàng mao A Đầu: con nhỏ hầu bên, với chỏm tóc vàng)

Có thể nói, từ cuối năm 1988, BG không còn lui tới gặp TCS nữa. Nhất là từ ngày tang lễ mẹ Sơn năm 1991, các em Sơn đã có thái độ rất rõ : không cho nhà thơ của chúng ta tham dự sợ làm lạc bầu không khí tôn kính trang nghiêm với những quan khách hệ trọng. Việc này, tôi nghĩ, TCS đã không hề biết! Mãi đến năm 1994, với tập “Hán Tự Hài Cú” mà BG và TCS mỗi người phỏng dịch độ một trăm bài, tôi đã gián tiếp là sợi dây liên lạc giữa hai nghệ sĩ. TCS đã nhờ tôi đưa đến BG chỉ một câu tám chữ mà BG đã trả đáp bằng câu sáu chữ:
(thì rằng)

Trùng dương viễn biệt muôn vàn

(ấy ai ấy ai)

Ghé qua lục địa muộn màng hỏi thăm.
Thật là mang mang một sự ngậm ngùi nhân thế! Tang lễ BG tháng tám năm Mậu Dần (1998), TCS đã đến lễ và hát trước linh cữu bài ca “Cát bụi”. Mấy tháng sau, nhân đọc bài hán tự hài cú:

Thi nhân quy thiên khứ
Lưu tồn điên đảo nhiễm trần ai
Xử ngã sầu bất tận
(NVT)
TCS tức khắc viết ra bốn câu bảy chữ tưởng nhớ đến nhà thơ:

Thi nhân vĩnh viễn chân trời ấy
Đảo điên điên đảo bụi trần gian
Từ ấy tôi buồn như cỏ dại
Buồn vì một chút bụi lang thang
(TCS, 9.5.1999)